March 17, 2012

BÍ-ẨN 30.04.1975


Thế lực DO-THÁI thúc đẩy Hoa-kỳ bỏ rơi miền Nam Việt-Nam càng sớm càng tốt.   
1) MỠ ĐẦU
     Đối với đa số người Việt đã từng sống trải qua, ngày 30.04.1975 là một biến cố đau thương nhứt của một đời người. Cố giáo-sư Nguyễn-ngọc-Huy - một bình-luận gia am tường mọi biến chuyển quốc-tế, từng nổi tiếng với những bài bình-luận thời cuộc "Tình hình thế-giới trong tháng qua" đã đăng tải trên nhiều tờ báo Anh Mỹ - đã đề cập công khai trực tiếp hoặc kín đáo gián tiếp trả lời những câu hỏi về biến-cố lịch-sử đặc biệt nêu trên. Những câu hỏi lịch-sử này cũng đã được bàn cải sôi nổi từ 35 năm qua và chưa đi đến một kết luận nào hữu lý để được mọi khuynh hướng chấp thuận. Điển hình nhứt là ngay trong dịp hội-thảo "Việt-Nam 35 năm nhìn lại" (Vietnam a 35 years Retrospective Conferance) tại Washington D.C vào ngày 09.04.2010 quy tụ gần 200 nhân vật với thành phần nổi tiếng như cựu Đại-sứ Bùi-Diễm, cựu Đại-tá Không-quân Hoa-kỳ Tiến-sĩ Stephen Randolph, Trung-tá Biệt-cách Dù Nguyễn-văn-Lân Thứ-trưởng John Negroponte, Sử-gia Dale Andrade, Tiến-sĩ John Carland, cựu Bộ-trưởng Hoàng-đức-Nhã, Đại-tá Trần-minh-Công, Đại-tá Hoàng-ngọc-Lung...cũng không đưa ra được câu trả lời thoả mãn cho sự thắc mắc: Ai đã gây ra thảm họa 30.04.1975.
     Nhìn trở lại, người ta có thể nhìn thấy rỏ ràng trong thời gian đầu ngay 30.04.1975, phần lớn các khuynh-hướng, từ chính-trị đến tôn-giáo, đều tìm cách đổ trách-nhiệm lẫn nhau về tội đã làm mất miền Nam. Chỉ có giáo-sư Huy là sớm thấy rỏ nguyên nhân chính nào đã khiến xảy ra thảm-họa 30.04.1975, Giáo-sư Huy cho biết: Nguyên nhân chính là Hoa-kỳ đã có kế hoạch giải-kết (bỏ mọi cam-kết bảo-vệ miền Nam) để từng bước rời bỏ miền Nam VNCH. Và thế-lực nào ở Hoa-kỳ đứng sau kế hoạch bỏ rơi miền Nam, Giáo-sư Huy cho biết trên chính-trường Mỹ có hai sắc-tộc nổ bật nhứt. Đó là sắc tộc gốc Ái-nhĩ-Lan (Ireland) và sắc-tộc gốc Do-Thái (quỷ satan). * Trong dòng lịch-sử, cộng đồng người Mỹ gốc Ái-nhĩ-Lan đã rất nhiều lần thắng cử chức-vụ Tổng-Thống. * Bên cạnh đó cộng đồng người Mỹ gốc Do-Thái chủ trương nắm giữ các cơ cấu quan-trọng trong guồng máy điều khiển đất nước Hoa-kỳ. Họ gài được nhiều các nhân-sự vào bên hành-pháp cũng như lập-pháp. Trong các bộ phận quan-trọng như ngoại-giao, quốc-phòng và tài-chánh thường thấy đa số nhân-viên gốc Do-Thái và nhiều lần cấp bộ-trưởng cũng do người Mỹ gốc Do-Thái nắm giữ. Trong thượng-viện và hạ-viện có khá nhiều nghị-sĩ và dân-biểu gốc Do-Thái trong cả hai chính đảng. Vì vậy, thế lực của cộng-đồng người Mỹ gốc Do-Thái rất lớn và đã khiến cho chánh-sách đối ngoại của Hoa-kỳ luôn luôn bênh cực quyền-lợi của Do-Thái.
     Tham dự hoà-đàm Paris giáo-sư Huy nhận xét rằng Kissinger (một người Mỹ gốc Do-Thái lúc đó còn làm cố vấn an-ninh cho Tổng-thống Nixon) có thái độ đáng ngờ là cương-quyết thỏa hiệp riêng (*đi đêm) với cộng-sản Việt-Nam với bất cứ giá nào để quân-đội Hoa-kỳ rời bỏ miền Nam, dù biết rằng sau đó miền Nam sẻ lọt vào tay Hà-Nội. Theo kinh nghiệm chính-trị thì các Chính-tri-Gia gốc Do-Thái đều hành-động có chủ đích với kế hoạch rỏ rệt. Như vậy đàng sau Kissinger ắt phải là chủ-trương của thế-lực Do-Thái. Thế-lực này phải hiểu là không phải chỉ thuần-túy cộng-đồng người Mỹ gốc Do-Thái, mà là sắc dân Do-Thái trải dài trên thế-giới từ Tel-Aviv đến Washington D.C, Paris, London, Berlin, Moscow...với tổng số 13,1 triệu người, trong đó 5,4 triệu tại quốc-gia Do-Thái,  5,3 triệu tại Hoa-kỳ và 2,4 triệu rải dài tại 30 quốc-gia khác. Thế lực này được điều-khiển hữu hiệu từ Tel-Aviv với hai bộ phận đắc-lực gồm cơ-quan Tình-báo MOSSAD và Nghị-viện Do-Thái Thế-giới. Riêng dư-luận thế-giới đã sớm nhìn thấy rỏ Hoa-kỳ muốn rút lui bỏ rơi miền Nam từ khi bắt đầu chánh-sách Việt-Nam hóa chiến-tranh (mà họ phân-tích là thay đổi màu da Tử-sĩ !), nhứt là Hòa-đàm Paris (mà họ nhận-định là nhằm bảo-đảm Mỹ rút quân được an-toàn).
     Như vậy thảm-họa 30.04.1975 đã xảy ra, nguyên-nhân chính là Hoa-kỳ có chính-sách bỏ rơi miền Nam VNCH và thế-lực Do-Thái thúc đẩy chính sách đó được thực-hiện qua Kissinger.
2) TẠI SAO THẾ LỰC DO-THÁI MUỐN BỎ RƠI MIỀN NAM VN ?
@Thế-lực Do-Thái tại Hoa-kỳ: Hiện nay tại quốc-hội Hoa-kỳ có 15 Thượng-nghị-Sĩ và 33 Dân-biểu liên-bang gốc Do-Thái (xem web http://en.wikipedia.org/wiki/list of...liticians#list.), thực sự nếu nghiên-cứu sâu rộng sẻ thấy thế-lực Do-Thái tại Mỹ còn lớn hơn nhiều, họ thành công trong việc gài nhân-sự cấp lãnh-đạo ở các bộ phận yết-hầu của Hoa-kỳ (nội các) Họ còn nắm những lãnh vực Ngân-hàng, thị trường chứng-khoán, báo-chí, truyền-thanh, truyền-hình và điện-ảnh...Đặc-biệt nghành truyền-thông, quan-trọng nhứt là Điện-Ảnh Hollywood nằm trong tay thế-lực Do-Thái, đã có nhân-sự từ Đạo-diễn đến Diễn-viên đều có gốc Do-Thái, nổi tiếng nhứt như Steven Spielperg, Liz Taylor, Kirk Douglas, Micheal Douglas, harrison Ford...(xem website: http://en.wikipedia.org/wiki/list of Jewish American entertainers ). Họ biết rỏ rằng nắm được truyền-thông trong tay là hướng dẫn được dư-luận quần chúng trong mục-tiêu phục-vụ quyền-lợi cho người Do-Thái. Họ còn điều-khiển một phần lớn các viện nghiên-cứu nhằm đưa ra những đề-nghị cho chính-sách tương-lai cho chính-phủ Mỹ và dĩ nhiên phải phù hợp với quyền-lợi của người Do-Thái.
     Ngoài ra các cường quốc Âu-châu, thế-lực Do-Thái có ảnh-hưởng tuy âm thầm nhưng cũng rất mạnh mẽ. Điển hình là Tổng-thống Pháp Sakozy & Thủ-tướng Đức Schmidt đều gốc Do-Thái nên không bao giờ lên tiếng thực sự chống lại những vi-phạm cam kết của Do-Thái tại Trung-Đông. Chính vì vậy, đa số thành viên Liên-hiệp-Quốc đã cho rằng thế lực Do-Thái có ảnh hưởng quá lớn đối với chính sách và biểu-quyết về Trung-Đông của các cường quốc Âu Mỹ.
@Tại sao thế lực Do-Thái muốn Hoa-kỳ phủi tay bỏ miền Nam: Muốn biết rỏ, chúng ta hãy tìm hiểu lịch-sữ mất nước và dựng nước của người Do-Thái. Vào năm 135 dân-tộc Do-Thái chính thức bị mất nước và phải lưu-vong khắp nơi vì Đế-quốc La-Mã. Thảm-họa mất nước đó thường được dư-luận Thiên-chúa Giáo cho là sự trừng phạt dân Do-Thái đã đóng đinh giết chúa Jesus và kẻ phản bội Judas chính là một người Do-Thái. Chính vì chuyện này đã làm cho dân Do-Thái bị kỳ-thị trên bước đường lưu-vong, nhưng cũng chíng vì có niềm tin mãnh-liệt vào Do-Thái giáo họ đã đoàn-kết nhau lại dưới sự lãnh-đạo của học gỉa Theodor Herzi trong đại-hội thế giới đầu tiên tại Basel (Thụy-sĩ) vào năm 1897, Từ đó, từng đợt một họ trở về quê-hương Palestine. Thế chiến thứ hai với sự yểm-trợ tích-cực của Hoa-kỳ đã tạo cơ-hội ngàn năm một thuở để họ dựng lại đất nước vào ngày 14.05.1948 sau gần 2000 năm lưu vong. Chỉ 11 phút sau đó Tổng-thống Hoa-kỳ đã lên tiếng công nhận quốc gia mới này, bất chấp mọi chống đối của thế giới Ả-rập và đã yểm-trợ hữu hiệu cho Do-Thái chống lại cuộc tấn công ngay sau đó của các quốc gia Ả-rập láng giềng và trong các cuộc chiến xảy ra sau này.
     Như vậy, Do-Thái còn tồn tại tới ngày nay là nhờ Hoa-kỳ làm "lá bùa hộ mạng". Nhiều nghị-quyết tại Liên-hiệp-Quốc kết án Do-Thái vi phạm cam kết tại Trung-Đông nhờ Hoa-kỳ dùng quyền phủ-quyết nên đành phải bỏ. Trong quá khứ, Hoa-kỳ từng giải kết bỏ rơi đồng-minh như Lào, Cam-Bốt, Việt-Nam, Đài- Loan...nhưng luôn luôn hết lòng với Do-Thái, mặc dù quốc-gia nhỏ bé này không mang lợi ích gì về tài-nguyên hoặc vị-trí chiến-lược cho Hoa-kỳ, mà trái lại chính Do-Thái, Hoa-kỳ còn gây ít nhiều hiềm-khích với thế giới Hồi-giáo dân số rất đông đảo (1,3 tỷ) và rất quan-trọng về lãnh vực dầu hỏa. Tất cả cho thấy rỏ ràng vì thế lực Do-Thái nắm giữ được các bộ phận huyết mạch tại Mỹ nên chính-sách của Hoa-kỳ phải luôn luôn không được đi trái ngược với quyền-lợi của quốc-gia Do-Thái.
     Từ đó, chúng ta mới hiểu rỏ tại sao thế lực Do-Thái muốn Hoa-kỳ phải phủi tay bỏ miền Nam Việt-Nam. Đó là vì họ sợ Hoa-kỳ sa lầy và sự tốn kém khổng lồ tại chiến-trường Việt-Nam có thể đưa đến hậu-quả Hoa-kỳ không còn khả năng giúp đỡ một cách hiệu lực Do-Thái tồn tại như trong quá-khứ Hoa-kỳ đã từng làm. Cho nên họ chủ trương Hoa-kỳ phải giải kết bỏ rơi miền Nam để trở về chuyên tâm lo cho Do-Thái. Để thực hiện mục-tiêu này họ đã có kế-hoạch rỏ ràng từng bước một.
@Kế-hoạch Do-Thái thúc đẩy Hoa-Kỳ bỏ rơi miền Nam.
     Khởi đầu giải quyết cuộc chiến Quốc - Cộng tại Lào vào đầu thập niên 1960, ông Ngô-đình-Nhu đã ngạc nhiên và bất mãn thấy thái độ nhượng bộ quá mức của ông Averell Harriman đặc trách bộ phận Viễn-đông của Bộ Ngoại-giao Mỹ trong lúc đàm phán. Nên biết ông Averell Harriman (1891-1986) là một nhà tư bản lớn nổi tiếng gốc Do-Thái và cũng là đảng viên cấp Lãnh-đạo đảng Dân Chủ ở Mỹ. Rỏ ràng phía thế lực Do-Thái muốn ngăn chận không cho Hoa-kỳ can thiệp với nhiều tốn kém ở Viễn-đông. Sự nhượng bộ rút lui này đã khiến cộng-sản Việt-Nam kiểm soát được phần lớn các địa điểm chiến-lược tại Lào và thiết lập đường mòn Hồ-chí-Minh vận chuyển nhân-lực và vỏ-khí vào để đánh chiếm miền Nam vào 30.04.1975.
     Từ khi nhậm chức, Tổng-thống Johnson (dân Taxas) cùng ban tham-mưu luôn cứng rắn chủ chiến và không muốn Hoa-kỳ bị thua trận đầu tiên trong nhiệm-kỳ của mình. Thế lực Do-Thái lúc đó không có ảnh hưởng nhiều với Johnson nên phải chờ đợi cơ hội thuận tiện để tấn công từ bên ngoài dư luận quần chúng. Đó là lúc cuộc chiến Việt-Nam bùng nổ lớn từ cuối năm 1964 trở đi với các trận đánh dữ dội tại Bình-Giã, Đồng-xoài, Đức-cơ...bắt đầu gây tử-thương nhiều quân-nhân Mỹ, những hình ảnh quan tài phủ quốc-kỳ kèm theo sau hình ảnh dã man bất lợi của chiến-tranh (thổi phồng vụ Mỹ-Lai & vụ Tướng Nguyễn-ngọc-Loan) hệ thống truyền-thông Hoa-kỳ đa số gốc Do-Thái quản-trị khai thác triệt để ngày đêm tạo một phong trào phản-chiến lớn mạnh chưa từng thấy trên thế-giới. Không những tại Hoa-kỳ mà còn lang rộng khắp nơi trên nhiều quốc-gia khác.
     Tướng độc nhởn Moshe Dayan bộ-trưởng quốc-phòng của Do-Thái, đột ngột tự qua Việt-Nam 3 ngày (từ 25 tới 27 tháng 7 năm 1966) và cho báo chí chụp bức hình biểu diễn đang hành quân với lực-lượng US Marine. Sau chuyến hành quân "chớp nhoáng" đó, tướng độc nhởn Moshe Dayan viết ngay đề nghị Mỹ nên rút quân ra khỏi Việt-Nam vì không thể thắng cuộc chiến này được (rất là vô lý vì hiện diện xem xét chiến-trường VN chỉ có một ngày, mà dám đưa ngay đề nghị khủng khiếp như vậy). Dĩ-nhiên lời đề nghị chủ bại này càng được thổi phồng bởi phong-trào phản-chiến và làm mất uy-tín Tổng-thống Johnson. Tiếc thay sau này và mới năm ngoái đây, vẫn còn có những ký-giã và bình-luận Gia Việt-Nam ca ngợi những phân-tích và đề-nghị của ông Tướng một mắt này, mà không hiểu đó là một trong những thủ-phạm đã góp phần "khai tử" miền Nam !
     Phong-trào phản-chiến càng lên cao đã khiến Tổng-thống Johnson vào tháng 3 năm 1968 phải quyết định không ra tái ứng cử. Sự xáo trộn tranh chấp kịch liệt trong đảng Dân-chủ đã tạo cơ hội hiếm có để Ứng cử viên của đảng Cộng-hòa nắm chắc sự thắng cử. Vì vậy thế lực Do-Thái đã gài được Kissinger từ 1957 làm cố vấn cho Nelson A. Rockefeller (Thống-đốc New York) đang vận động ra tranh cử làm Ứng cử viên Tổng-thống của đảng Cộng-hòa. Nhưng không ngờ Nixon thành công hơn. Thấy vậy, Kissinger bèn trở cờ đầu quân theo Nixon và được trọng dụng làm cố-vấn An-ninh.
     Đến năm 1971, Kissinger bí mật qua Trung-Hoa tìm cách tái bang-giao với chính-quyền Bắc-kinh và đưa đến thỏa-hiệp Thượng-Hải 1972 giữa Mao-trạch-Đông và Nixon. Trên bề mặt, thỏa-hiệp này chỉ công nhận một nước Trung-Hoa cho thấy Hoa-kỳ bỏ rơi Đài-Loan trên chính trường Thế-giới, nhưng bên trong thực-tế Kissinger nhằm sửa soạn cuộc rút lui an-toàn cho quân-đội Mỹ ra khỏi miền Nam với sự bảo-đảm của Trung-cộng. Quả nhiên, chỉ sau đó chưa đầy một năm, Kissinger đã dùng đủ mọi mánh khoé, kể cả đe dọa tánh mạng các cấp lãnh-đạo VNCH, thành công trong việc ép buộc VNCH ký kết hiệp-định Paris ngày 27.01.1973 để quân-đội Hoa-kỳ an toàn rời khỏi miền Nam. Phía dư-luận báo chí quốc-tế đã sớm thấy rỏ âm-mưu của Kissinger và đã ví bản hiệp-định này như tờ khai-tử cho miền Nam Việt-Nam. Chính ngay Kissinger cũng đã tiết lộ bề trái của bản hiệp-định cho cố-vấn đặc-trách nội-vụ John Ehrlichmann của TT Nixon như sau:"Tôi nghĩ rằng nếu họ (chính-phủ VNCH) may mắn thì được một năm rưỡi mới mất". Tương tự, Kissinger đã trấn an TT Nixon là:"Hoa-kỳ phải tìm ra một công thức nào đó để làm cho yên bề mọi chuyện trong một hai năm sau, sau đó thì...chẳng ai cần đếch gì nữa. Vì lúc ấy, Việt-Nam sẻ chỉ còn là bãi hoang vắng".
     Bởi vậy thảm-họa 30.04.1975 xảy ra là điều tất-nhiên đúng như tính toán dự trù của Kissinger và thế lực Do-Thái. Chỉ sau hiệp-định Paris chỉ 9 tháng, cuộc chiến Jom Kippur vào ngày 06.10.1973 giữa Do-Thái và các quốc-gia Ả-Rập láng giềng xảy ra. Lần đầu tiên trong lịch-sữ tái lập quốc, Do-Thái bị thua trận và mất một số lớn phần đất chiếm đóng trước đây. Đáng lý Do-Thái còn phải thua nặng nề hơn nữa, nhưng giờ phút chót còn có Kissinger thuyết phục được Nixon nổ lực can thiệp giúp Do-Thái nên tình thế không còn bi-đát nhiều. Tuy nhiên, sau đó Tướng độc nhởn Moshe Dayan phải từ chức Bộ trưởng Quốc-phòng vì chịu trách-nhiệm bị thua trận.
3) KẾT LUẬN:
     Biến-cố thua trận đầu tiên Jom Kippur năm 1973 cho thấy thế lực Do-Thái nhìn rất xa và rất có lý với nỗi lo sợ Hoa-kỳ vì sa lầy ở chiến-trường Việt-Nam nên không còn có thể chuyên tâm giúp cho Do-Thái thắng trận như trước đây. Cho nên không gì ngạc nhiên khi thế lực Do-Thái phải vận dụng toàn diện từ trong lẫn ngoài để thúc đẩy và buộc giới lãnh-đạo Hoa-kỳ phải bỏ rơi miền Nam.
     Bí ẩn về lý do và động lực thúc đẩy Hoa-kỳ phải rút quân bỏ rơi miền Nam được che dấu tinh vi, bởi vì phần lớn hệ thống truyền thông báo chí quan-trọng nằm trong tay thế lực Do-Thái hoặc bị họ ảnh hưởng kiểm soát không cho phép họ làm hoặc sợ bị họ mang tiếng bài Do-Thái (Anti-Semitism). Cho nên đến 35 năm sau dư luận vẫn còn bị xí gạt. Điển hình, về phía dư luận ngoại quốc vẫn còn có những vị học giã (thí dụ: Tiến-sĩ Stephen Randolph trong hội thảo "Việt-Nam 35 năm nhìn lại" - "Vietnam, a 35 years Restrospective conferance") tại Washington D.C vào ngày 09.04.2010 lầm lẫn hoặc cố tình cho rằng Hoa-kỳ vào năm 1972 muốn tái lập bang giao với Trung-cộng nên phải rút quân ra khỏi miền Nam (chịu thua) vì đang câu con cá to hơn ("has bigger fish to fry"). Thực tế Hoa-kỳ đã có kế hoạch bỏ rơi miền Nam từ khi Kissinger bước vào tòa Bạch-Ốc  năm 1969 với gia tăng Việt-Nam hóa chiến-tranh.
     Về phía Cộng-sản Bắc-việt ngoại trừ lợi thế sẵn có của đường lối độc-tài cuồng tín trong chiến tranh dám vô nhân-đạo dùng chiến-thuật biển người hy-sinh "nướng quân" hàng loạt trên chiến-trường (theo nhận xét của Tướng Westmoreland) họ không ngờ có được sự giúp đỡ hữu-hiệu của thế-lực Do-Thái tạo ra phong trào phản-chiến đưa tới tình trạng "Đồng-minh tháo chạy" bỏ rơi VNCH (danh từ của Tiến-sĩ Nguyễn-tiến-Hưng). Thực tế nếu không có sự phản bội của thế lực Do-Thái qua sự nắm quyền của ê-kíp Kissinger thì chưa chắc gì cộng-sản VN sớm thắng trận. Như vậy miền Nam chỉ cần cầm cự được vài năm cho đến khi Tổng-thống Reagan nắm quyền và với tài lãnh-đạo xuất sắc cương quyết nổi tiếng của ông này chắc chắn miền Nam sẻ được yểm-trợ đầy đủ (đã xảy ra như vậy tại Nam-Mỹ và A-phú-Hản) để không thể dể dàng rơi vào tay cộng-sản như đã xảy ra trong ngày 30.04.1975.
     Đa số người Việt chúng ta có thiện-cảm với dân-tộc Do-Thái qua tác-phẩm lừng danh "Về miền đất hứa / Exodus" của tác-giả Leon Uris vì ngưỡng mộ tinh thần đoàn-kết và chiến đấu dũng-cảm của họ sau 2000 năm lưu-vong đã thành công trở về tái dựng lại quốc-gia Do-Thái. Trong tình-cảm nồng nàn đó, Học-giả Nguyễn-hiến-Lê vào năm 1968 mang sức ra viết tác-phẩm "Bài học Israel". Nhưng thực-tế chính-trị cho thấy tham-vọng thủ-đoạn của Do-Thái sau khi tái lập quốc, nên chính ông đã không ngần ngại lên tiếng chỉ trích nặng nề. Đó cũng là tâm-trạng của chúng tôi khi biết qia Giáo-sư Nguyễn-ngọc-Huy và Linh-mục Cao-văn-Luận khám phá ra mưu sâu của thế lực Do-Thái khiến xảy ra thảm-họa 30.04.1975 cho quê hương Việt-Nam và dẫn tới hiểm họa mất nước vào tay Trung-cộng.
     Chúng tôi tin rằng Giáo-sư Nguyễn-ngọc-Huy và Linh-Mục Cao-văn-Luận đã đi bước tiên phong tiết lộ những bí ẩn về thảm-họa 30.04.1975 và trong tương lai sẻ được giới truyền-thông báo-chí chú tâm nghiên-cứu khai-triển tích-cực để lịch-sử Việt-Nam và Thế-giới mai sau không còn bị sai lầm nữa !

Phạm-Trần Hoàng-Việt - Phonang 30/12/2011
(Lê phi Ô - trích từ trên Net)