May 01, 2011

Những Anh-Hùng Vô Danh

Trường-Sơn Lê-Xuân-Nhị "Thành kính tưởng niệm các chiến-sĩ Địa-Phương-Quân anh dũng Đồn Dak-Seang"
.....................................................................................
Ngày cuối cùng của cuộc biệt phái, chúng tôi cất cánh phi vụ thứ hai vào khoảng 3 giờ chiều.  Lên trời, làm vài vòng, tôi hỏi Đại-úy Ngọc:
- Hay mình làm vài vòng, nếu không có gì thì đi kiếm cái chòi Thượng nào đó "duy trì khả năng" rồi về đáp. Mai đổi biệt-đội khác rồi.
Đại-úy Ngọc đột nhiên phản đối:
- Thôi cứ để đó, mày bay dọc lên Dak-Pek đi. Tao đi quan sát lần chót để bàn giao vùng trách nhiệm cho phi-hành đoàn mới.
Có cái gì thắc mắc trong đầu anh mà tôi không nghĩ ra, lát sau anh nói:
- Mày để ý thấy chiến-trường lần này, đặc-biệt là mấy ngày hôm nay yên lặng một cách quá đáng không ?
Tôi chả biết gì, trả lời:
- Yên thì có yên đó, nhưng mà có gì không anh ?
- Thường thường mà yên quá như thế này là thế nào cũng có đánh lớn.
Tôi nói xuôi:
- Mai mình về rồi, nhằm nhò gì.
Khoảng 5 giờ chiều tôi đang lơ lửng gần một cái đồn nhỏ gọi là đồn Dak-Seang, phía nam của Dakto. Đại-úy Ngọc chợt giật cần lái, quẹo một vòng.
- Để tao coi. Đ.M. hình như đồn nầy đang bị pháo kích.
Chỉ một thoáng sau anh la lên:
- Đ.M. đúng rồi. Đ.M. nó đang pháo vô đồn.
Anh Ngọc gọi máy về Trung-tâm Hành-quân, báo cáo những gì mình thấy và xin tầng số liên lạc ngay. Chỉ trong vài phút, Trung-tâm Hành-Quân xác nhận với chúng tôi là đồn bị pháo kích, và có nhiều dấu hiệu cho thấy là đồn sẻ bị tấn công. Chúng tôi được chỉ thị ở lại làm việc với đồn. Bắt được liên lạc, trao đổi danh hiệu xong là chúng tôi giảm cao độ. Vừa tà tà bay vô thì bổng hàng chục cây phòng không nhắm vào chúng tôi nổ tới tấp. Chắc chắn phải có vài viên trúng tàu vì tôi nghe lên vài viên bụp bụp. Tôi càu nhàu: "15 ngày biệt phái không sao, ngày cuối cùng mà lãnh một viên vào...đít là xui quẩy". Vô không nổi, tôi quẹo ra. Đại-úy Ngọc phê bình:
- Trên trời mà phòng không "kềm cứng một rừng" như vậy là dưới đất nó đã chuẩn bị trận địa pháo rồi. Lạng quạng thì đồn này mất tối nay.
Anh giở tấm bản đồ, ba cái FM trên phi-cơ được xử dụng liên tục. Cái gọi Pháo-binh, cái trực với đồn Dak-Seang, cái nói thẳng với Bộ Tư-lệnh chiến-trường. Cường độ pháo kích càng ngày càng trở nên khốc liệt, Tôi lên cao chút xíu rồi rình rình lại chui vào từ một hướng khác. Bố khỉ, tôi lúc ấy mới khám phá ra là khu vực làm việc bị mây "broken" từng cụm nhỏ bao phủ khoảng từ 5 đến 8 ngàn bộ trên trời. Đang quan sát, tàu chui vào mây là coi như mù. Ra khỏi mây thì phải mất một lúc mới trở lại được chổ quan sát cũ. Đại-úy Ngọc chửi thề:
- "Đ.M. mây mà cũng bị việt-cộng dụ dỗ đâm sau lưng chiến sĩ. Trời đất bao la sao không kiếm chổ bay mà cứ lẩn quẩn làm cái con C. gì ở đây".
Tôi đã cắt ga xuống dưới trần mây mấy lần nhưng vừa xuất hiện là bị hàng chục họng phòng không thổi rào rào vô mặt, đuổi trở lên "súng đâu mà chúng nó lắm thế" Tôi đành vật lộn với đám mây...việt-cộng này.
Bi thảm hơn, giặc bắt đầu nã 130 ly vào đồn, Hai cây đại pháo, một cây đặt ở ven làng cách đó 15 cây số, cây kia ở hướng đối diện cứ tà tà nã từng trái đạn một vào đồn. Từ trên, tôi nhìn thấy rỏ ràng những quả đạn rơi rất chính xác vào trong đồn. Cứ mỗi quả đại bác rơi xuống là có chừng mười mấy trái súng cối nổ kèm theo "phụ diễn". Tôi và anh Ngọc lồng lộn trên tàu bay. Máy vô tuyến gọi đến gần nát cả cổ họng, nhưng bất ngờ quá, chả thấy phi tuần xuất hiện, anh Ngọc gọi pháo từ căn cứ Pháo-binh gần đó nhất để yểm trợ. Vừa nhận được tọa độ, đã nghe ở dưới đất kêu trời:
- Vô ích bạn ơi. Xa quá, bắn tới Tết...cũng huề.
- Thì bạn quay nòng xuống thổi đại cho một chục tràng đi, bắn dọa nó cũng được.
- Xong rồi để tôi lấy yếu tố tác xạ.
- Yếu tố mẹ gì, bắn đi bạn...
Khoảng 5 giờ rưỡi chiều, người chỉ huy đồn Dak-Seang có vẻ bối rối:
- Bạch Ưng, đây Thạnh Trị.
- Nghe 5 bạn.
- Báo cho bạn biết đến giờ phút này con cái tôi đếm được là 500 trái rồi đó bạn. Hầm hố tôi 50% thiệt hại.
Tôi muốn nhảy nhổm trong tàu bay. 500 trái vừa Pháo vừa Cối xuống một diện tích tí teo như thế kia thì còn hầm còn hố nào. Anh Ngọc bổng nảy ra một kế...chết người.
- Nếu để nó pháo điệu này thì chừng tí nữa quân mình chẳng còn gì hết. Mình phải "Chiến-tranh Chính-trị" mới được.
- Có học trường Chiến-tranh Chính-trị ngày nào đâu mà đòi...chiến-tranh chính-trị anh ?
Người phi công chiến-tranh chính-trị bất đắc dĩ lên mặt dạy dỗ:
- Từ từ để tao cắt nghĩa. Chiến-tranh chính-trị nghĩa là...có là không, không là có. Bây giờ chưa có phi tuần thì mình phải làm như có phi tuần. Mình phải xuống ngay trên đầu mấy cây pháo làm bộ như phi tuần sắp tới thì pháo nó mới câm được.
- Xong rồi.
Mặc dù vẫn còn ngán mấy chục họng phòng không nhưng trong hoàn cảnh nầy, đạn tránh người chứ người làm sao tránh đạn ? Tôi cắt ga cho tàu rơi cái rào, cứ nhắm họng đại bác bay tới. Đạn nổ tùm lum chung quanh tàu. Anh Ngọc trấn an tôi:
- Mày đừng lo, tao có bùa nanh heo rừng, đạn nó né tao.
Nghe sao mà chán đời, Tàu bay chỉ có hai người, đạn nó bay vào đây mà né anh Ngọc thì nó nhất định phải kiếm người khác để chui vào. Người đó còn ai khác hơn tôi.
Bổng nhớ ra điều gì, anh sờ tay vào ngực quờ quạng rồi rú lên:
- Bỏ mẹ rồi, nanh heo rừng đíu có mang theo. Đ.M. hôm qua đi tắm treo nó chổ phuy nước quên đeo vô rồi.
Nhưng anh nói ngay
- Nhưng tử-vi nói tao sống thọ lắm, yên chí lớn đi thằng em.
Tôi nghiệm ra rằng con người, lúc ở trong những hoàn cảnh nguy hiểm đều kiếm ra một lý do nào đó để tự tin và hy vọng. Càng đi xa đồn thì phòng không càng bớt dần. Thấp thoáng con gà cồ của giặc đã nằm ngay dưới cánh, chúng tôi xuống thấp thêm tí nữa, lượn vòng chung quanh cây pháo. Đúng y như anh Ngọc đoán, pháo im bặt. Rồi như một cơn mưa rào đổ xuống mùa hạn hán, một hợp đoàn Cobra của Tây xuất hiện, Đại-úy Ngọc qua được tần số của Tây xí xa xí xồ một chập, tôi nghe được mấy tiếng "everywhere". Vừa vào vùng là mấy anh Cobra làm ăn liền. Tôi ngạc nhiên thấy họ thay phiên nhau bắn rào rào chung quanh đồn. Như vậy con cháu họ Hồ đang "tùng thiết" đi vô chăng ? Dĩ nhiên phòng không giặc bây giờ đổi mục tiêu, nhắm mấy anh Cobra nhả đạn. Trận thư hùng coi rất đẹp mắt nhưng ngắn quá. Mấy ông Tây bắn chừng 5 phút là hết đạn, quay lui. Khốn nạn hơn, cái món chiến-tranh chính-trị xem ra hết ép phê. Có lẽ giặc biết chúng tôi chỉ dọa giả nên cây pháo bắt đầu nổ trở lại. Đại-úy Ngọc gầm lên:
- Đ.M. tụi mày, lát nữa khu trục lên tao cho nó...bỏ bomb thấy mẹ mầy.
Tức quá mà không làm gì được thì...chửi cho đã tức. Chúng tôi chỉ có bốn quả Rocket khói, chẳng xơ múi gì được. Rồi Peacock gọi thông báo sẻ có phi tuần khu trục A-1 đã cất cánh khẩn cấp từ Pleiku lên làm việc với chúng tôi. Đại-úy Ngọc hớn hở gọi máy:
- Thạnh trị, đây Bạch Ưng
- Nghe 5 bạn, gần ngàn trái rồi. Tụi nó mới xung phong đợt đầu đó bạn.
- Có sao không bạn ?
- Không, mấy thằng chuồn chuồn tới đúng lúc với lại con cái tôi đánh giặc còn "tới" lắm bạn ơi. Tụi nó rút hết rồi. Khoảng chừng 50 xác nằm dài dài. Mấy thằng Tây đánh đẹp lắm.
- Chúng tôi sẻ có hai phi tuần lên liền bây giờ bạn.
- Bạn ráng dùm, hầm hố gần nát hết rồi bạn
- Tôi hiểu bạn.
Cây 130 quái ác vẫn đì đạch phọt ra từng cụm khói đen. Tôi bảo anh Ngọc:
- Anh để em lên làm đại một trái khói vô đó coi, may ra...
- Ờ, may ra... 
Tôi làm vòng bắn, nghiêng cánh quẹo vào, nhắm và bóp cò. Oành...trái Rocket nổ gần cây đại pháo. L-19 mà bắn được vậy là nhất rồi, nhưng có chết thằng chó nào đâu ! không chết nhưng cây pháo lại im tiếng một lần nữa. Tốt ! tôi tính cứ lâu lâu nhào xuống xịt cho tụi nó một trái để mua thời gian chờ khu trục lên. Rồi tiếng rè rè thử vô tuyến của mấy ông khu trục A1 nghe lên bên tai. Phải thú nhận, cái tiếng rè rè đực rựa lúc này nghe sao mà nó...đáng yêu thế. Đó là thứ tiếng nói của hy vọng, của niềm tin, của sức mạnh, của tình chiến hữu. Anh Ngọc trao đổi vô tuyến với phi tuần khu trục rồi gọi máy cho quân bạn.
- Thạnh trị, đây Bạch-Ưng
- Nghe bạn 5
- Chim sắt của tôi lên rồi đó bạn, bạn muốn tôi đánh đâu ?
- Bạn lo giùm mấy con gà cồ trước đi.
- O.K ! roll
Phi tuần khu trục vừa xuất hiện thì cả bầu trời biến thành một biển lửa. Số lượng phòng không bây giờ không biết bao nhiêu cây, nhưng dòm hướng nào cũng thấy lửa và lửa. Trời đã về chiều nên những viên đạn lửa bay vút lên cao càng được thấy rỏ ràng hơn. Phi tuần đầu nhào lên nhào xuống mấy lần vẫn không làm câm họng được cây pháo phòng không vì trời quá xấu. Những đám mây...phản Quốc, khốn nạn vẫn chình ình khắp nơi. Khó khăn lắm họ mới kiếm được cái lỗ chui xuống, bay giữa những loạt đạn phòng không trùng điệp, để tới mục tiêu, bấm rơi bomb, rồi kéo lên. Còn hai trái cuối cùng, người phi công A-1 "để" vào ngay trên ổ súng chính xác như để bi vào lỗ. Ầm...một tiếng vang lên rồi tiếp theo là nhiều tiếng nổ phụ. Cha con nó đang đền tội. Xong một cây, anh Ngọc hướng dẫn phi tuần thứ hai đang làm ăn thì tôi nghe tiếng gọi:
- Bạch-Ưng, đây Thạnh trị
- Nghe 5 bạn
- Báo cho bạn biết, hầm chỉ-huy tôi sập rồi. Tôi ra giao thông hào với mấy đứa con.
- Bạn mhớ giữ liên lạc với tôi.
- Bạn...
Không có tiếng trả lời. Tôi hoang mang. "ra giao thông hào với mấy đứa con" vậy là bi đát lắm rồi. Anh Ngọc bảo tôi:
- Anh đang bận hướng dẫn khu trục, em qua FM gọi thằng Trung-tâm hành quân xin gấp cho anh ít nhất là 2 phi tuần nữa, lên liền lập tức, nếu không kịp là bọn nó sẽ "over run" Dak-Seang trong vòng nữa tiếng đồng hồ.
Tôi đổi tần số FM, anh Ngọc cẩn thận dặn dò thêm:
- Phải nhớ la ơi ới lên như là đang bị bóp...dái thì cha con nó mới chịu chạy dùm.
Tôi phì cười, ông Đại-úy nầy lúc nào cũng đùa được. Khỏi cần bị ai bóp dái tôi cũng la được vì hò hét và tả oán là sở trường của tôi. Tôi gọi máy và có kết quả ngay. Anh Ngọc mừng rú lên khi được thông báo có một phi tuần F4 của Hải-quân Mỹ sẻ cất cánh ngay từ Hàng-không Mẫu hạm vào làm việc. Giọng nói từ dưới đất bây giờ nghe có vẻ hốt hoảng:
- Bạch-Ưng, đây Thạnh Trị
- Nghe bạn 5
- Bạn cho mấy con chim sắt đánh sát quanh đồn gấp đi bạn. Tụi nó đang "à lát xô" lên.
Anh Ngọc la ùm lên trong tần số khu trục. Hai chiếc khu trục A-1 còn mấy trái bomb bỏ dở...hối hả trở về đồn nhào xuống đánh sát chung quanh rào. Một ông la to khi kéo tàu lên:
- Tụi nó đông như kiến bạn ơi.
- Còn phải hỏi.
Khu trục đánh hết bomb nhưng vẫn bay trên mục tiêu để bắn hết những tràng Cà-nông 20 ly. Tình hình lúc này đã bi đát lắm rồi. Giặc xung phong lên ào ào. Thạnh Trị thông báo là một góc phòng tuyến đã bị vỡ và con cái anh đang xáp-lá-cà với giặc. Tôi nghe Trung-tâm Hành-quân (TTHQ) thêm 3 căn cứ khác cũng bị tấn công một lúc. Anh Ngọc bảo tôi:
- Tao còn lạ gì cái trò này, tụi nó đánh nghi binh để dứt điểm Dak-seang đó. Phải cẩn thận.
Trong vô tuyến, tiếng tàu bay gọi nhau, tiếng trao đổi gã trên trời và dưới đất nghe loạn cào cào...Bởi trong những tiếng ồn ào đó, có tiếng gọi của mấy ông F-4 Hoa-kỳ. Mấy ông Tây trang bị vũ-khí tận răng. Hai chiếc F-4 mỗi chiếc mang 18 trái 500 pouds đang làm vòng chờ ở khoảng 20 ngàn bộ. Anh Ngọc chỉ "briefing" một tí, mấy ông "Roger" và "Sir" lia lịa nhào xuống làm ăn liền. Khu trục Việt-Nam đánh đã đẹp, mấy ông Tây đánh cũng không thua ai. Từ khoảng 15 ngàn bộ, mấy ông nhào xuống dưới trần mây, thả những trái bomb thật chính xác. Phòng không bắn đữ dội nhưng xem ra không ăn thua gì với mấy chiếc F-4 nầy. Đang đánh ngon lành thì tôi nghe tiếng gọi từ dưới đất:
- Bạch-Ưng, đây Thạnh Trị
Giọng nói lúc này không có vẻ hốt hoảng mà bình tỉnh lạ thường. Anh Ngọc bấm máy:
- Nghe bạn 5, cho biết tình hình đi bạn.
- Tôi yêu cầu Bạch-Ưng cho đánh ngay vào trong đồn.
Cả hai chúng tôi giật nẩy mình, chỉ hy vọng là mình nghe...lộn. Chúng tôi sửng sờ không trả lời được. Người chỉ huy dưới đất xác nhận lại:
- Bạch-Ưng, tôi xác nhận lại, tôi xin bạn đánh xuống đầu tôi.
- Bạn nói bạn xin đánh thẳng vào đồn ?
- Đúng 5, hết hy vọng rồi bạn ơi. Cứ đánh vào đây để tụi nó chết chùm luôn với chúng tôi.
- Bạn suy nghĩ kỷ chưa ?
Giọng nói dưới đất lúc này nghe có vẻ hết kiên nhẩn:
- Không còn lựa chọn nào khác bạn ơi. Bạn đánh lẹ giùm, chúc bạn may mắn..."cổ lai chính chiến kỷ nhân hồi" mà bạn...
Đó là tiếng nói cuối cùng tôi nghe được từ đồn Dak-Seang "cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi". Anh Ngọc hốt hoảng gọi máy về xin chỉ thị của Quân-đoàn. Quân-đoàn trả lời phải xác nhận với đồn Dak-Seang một lần nữa rồi cho biết kết quả. Chúng tôi gọi muốn đứt hơi nhưng không còn liên lạc với Thạnh Trị nữa.
Báo cáo trở lại, Quân-đoàn quyết định: cho đánh thẳng vào đồn nhưng phải...cẩn thận.
- "Cẩn thận con C...ông" anh Ngọc lẩm bẩm chửi thề rồi gọi máy thông báo cho mấy ông Tây, bảo đánh thẳng vào đồn. Người phi-công Hải-quân Mỹ vừa kéo con tàu lên sau một loạt tấn công cũng bối rối không kém:
- Roger, Sir ! did you say...right on it ? Over.
- Yes Sir, it's all over. I said you salvo right on it. Over.
- Roger, Sir ! I understood, Sir, Over.
Chỉ có vậy thôi, đồn Dak-Seang biến thành một biển lửa sau hai đợt bomb salvo của mấy chiếc Phantom. Tôi đang chứng kiến một hình ảnh mà có lẽ suốt đời sẽ không bao giờ quên được. Tôi biết nói gì lúc này đây cho những người chiến-sĩ Địa-phương-Quân QLVNCH ? Tất cả những ngôn từ, những ý nghĩ đều trở thành vô nghĩa trước cảnh tượng bi-thảm hào-hùng này. Bay cách đó chừng 5 cây số với cao độ 5 ngàn bộ mà con tàu tôi như rung lên dưới tiếng nổ và sức ép khủng khiếp của mấy chục trái bomb 500 cân Anh nổ một lần. Làm sao còn có ai sống sót sau cơn tàn phá khủng khiếp này ?. Những thịt, những xương, những máu của các anh-hùng Dak-Seang đã tung bay khắp nơi rồi rơi xuống lẫn lộn với bụi, với đá, với sắt, để rồi nằm im trên mặt đất. Cũng trên mặt đất này của Quê-hương, ở một nơi nào đó, những người vợ, những đứa con, những bà con thân bằng quyến thuộc của các anh đâu biết người thân của mình đã anh-dũng đền nợ nước, vừa "cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi" như lời trăn trối cuối cùng của người đồn trưởng, vừa chết để cho cả dân-tộc được sống, được hít thở không khí tự-do dù chỉ trong một khoảnh khắc...
Ngày mai đây, những chiếc khăn tang trắng sẽ được chít vội vã lên đầu những người thiếu phụ nghèo nàn khổ sở kia, những khuôn mặt bầu bĩnh vô tội của trẻ thơ. Nước mắt nào khóc cho hết nỗi bi thương của người vợ lính VNCH đây hỡi ông trời xanh thẳm ? Hình ảnh nào có thể thay thế được hình ảnh ngọt ngào của Cha chúng nó, suốt khoảng đời còn lại của những em bé hồn nhiên vô tội kia hỡi ông trời ? Dân tộc tôi đã làm gì nên tội, "Tử biệt sinh ly" câu nói nghe được từ thuở học trò bây giờ mới thấy trọn nghĩa ý đau thương.
Máu nào chảy mà ruột không mềm, mắt tôi bổng chan hòa nước mắt. Tôi tống ga bay trở lại đồn. Qua màn lệ nhạt nhòa, tôi chẳng còn thấy gì, ngoài những cụm khói đen bốc lên giữa đồn. Những cụm mây oan khiên vừa rồi vẫn còn vần vũ như những chiếc khăn tang trắng lồng lộng bao phủ cả bầu trời. Mây ơi là mây, còn sống chẳng chịu giúp nhau, bây giờ người đã chết, đồn đã mất sao còn lảng vảng để khóc thương.
Trời chiều cao nguyên vốn đã thê lương cô quạnh lại càng trở nên tang tóc sầu thảm hơn. Hai chiếc Phantom Hoa-kỳ ráp thành một hợp đoàn tác chiến bay những vòng tròn thấp chung quanh đám đất đá điêu tàn không hiểu để quan sát hay để chào vĩnh biệt những chiến-sĩ gan dạ anh-hùng của Địa-phương-Quân QLVNCH. Dưới trời chiều nắng tắt, trông hợp đoàn Phantom như hai con chim Hải-Âu ủ rủ lượn từng vòng quanh xác chết của đồng loại. Sau khi nhận kết oanh kích của anh Ngọc, giọng nói xúc động của người phi tuần trưởng Phantom vang lên:
- Sir, may I reach out across the fires and destructions of to đay to tell you this: Those people down there have fougth like men and have gone in honor.
Giọng anh Ngọc run run nghẹn ngào:
- Yes sir, they have gone in honor. That was an Alamo by all means, sir. An ever greater Alamo than ours, Over.
Tôi thấy hai hàng nước mắt chảy dài trên má anh Ngọc.
- Roger ! we have thousand of Alamo like that every day in our country. 
- Roger, I believe that, sir, God bless you all. Over.
Hai chiếc Phantom liếc cánh chào vĩnh biệt rồi bốc lên cao, mất hút giữa bầu trời ảm đạm. Alamo, cái tên đã đi vào huyền sử của dân tộc Hoa-kỳ mà bất cứ công dân Mỹ nào nghe cũng phải hảnh diện. Alamo, làm tôi nhớ đến bài học Anh văn năm đệ ngũ. Alamo, đúng ra là một ngôi nhà thờ "Y-pha-Nho" mà 2000 chiến-sĩ kỵ-binh Hoa-kỳ đã tử thủ khi chống cự lại với hàng chục ngàn quân Mễ-Tây-Cơ cho đến phút cuối cùng. Không ai đầu hàng và tất cả đã bị tàn sát. Người Mỹ chỉ có một thành Alamo trong suốt 200 năm lập quốc mà cả thế giới đều biết, đều mến phục. Đất nước tôi có bao nhiêu thành Alamo còn tàn khốc hơn, đẩm máu gấp ngàn lần hơn suốt bao năm chinh chiến.
Sáng sớm hôm sau tôi và anh Ngọc bay thêm một phi-vụ sớm trước khi bàn giao biệt-đội. Tối đêm qua một trận mưa bomb của B52 đã cày nát khu tập trung quân giặc. Dù biết là vô ích, chúng tôi vẫn mở tần số củ để gọi Thạnh Trị. Nhưng chả còn Thạnh Trị nào để trả lời cho Bạch-Ưng nữa. Đồn Dak-Seang chỉ còn đống đất vụn điêu tàn. Gió thổi lên từng cơn cuốn theo những lớp bụi đỏ mù.
Tôi nhìn xuống đó, tưởng nhớ đến những cái chết oai hùng chiều qua. Trong một quê hương khói lửa, kiếp người quả thật mong manh như gió, như đám bụi mù kia. Mới nói nói cười cười mà bây giờ đã ngàn thu vĩnh biệt.
Bay thêm vài vòng quanh đồn để tưởng nhớ ngậm ngùi cho các anh rồi cũng đến lúc phải từ giả để ra đi. "Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi". Thôi thì xin thành kính nghiêm trang đưa tay chào vĩnh biệt các anh. Những người lính Địa-Phương-Quân âm thầm của một tiền đồn xó núi. Địa-Phương-Quân, cái tên nghe khiêm nhường và hiền lành như đất, như bộ đồ xanh bạc màu của các anh. Địa-Phương-Quân, thứ lính...âm thầm nhất trong các thứ lính của Quân-lực; không màu mè, không áo rằn ri, không có những huyền thoại khủng khiếp, không "truyền thống binh chủng" không có đến những khẩu hiệu nẩy lửa chết người. Nhưng Địa-Phương-Quân Pleiku chiều qua đã bình tỉnh xin "cho nó nổ trên đầu tôi". "Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi bạn ơi". Xin vĩnh biệt và cảm tạ. Cảm tạ các anh đã đem cái quí giá nhất của cuộc đời là mạng sống mình để đổi lấy cho Quê-hương dù đã rách nát tả tơi còn có được những ngày xanh hy vọng. Cho buổi họp chợ ban mai, dù nghèo nàn thưa thớt vẫn còn được an bình. Cho ngôi trường quận lỵ thấp lè tè những mái tôn cháy nắng còn rộn tiếng trẻ thơ cười. Cho mái chùa cong cong nơi sườn núi còn được ngân lên những hồi chuông tín mộ. Và cho những người ở lại như tôi đây biết rằng mình sống tức còn nợ phải trả...Các anh chính là những người được mô tả trong một bài học thuộc lòng tôi thuộc làu làu lúc còn là một đứa bé:

Họ là kẻ khi quê hương chuyển động
Dưới gót giày của những kẻ xâm lăng
Đã xông vào khói lửa quyết liều thân
Để bảo vệ tự do cho Tổ quốc
Trong chiến đấu không nài muôn khó nhọc
Cười hiểm nguy bất chấp nỗi gian nan
Người thất cơ đành thịt nát xương tan
Những kẻ sống lòng son không biến chuyển
Tuy tên họ không ghi trong sử sách
Tuy bảng vàng bia đá chẳng đề tên
Tuy mồ hoang xiêu lạc dưới trời quên
Không ai đến khấn nguyền dâng lễ vật
Nhưng máu họ đã len vào mạch đất
Thịt cùng xương trộn lẫn với non sông
Và linh hồn chung với tấm tình trung
Đã hòa hợp làm linh hồn giống Việt

Xin thành kính viết lại một phần bài thơ của Đằng-Phương để tặng các anh. Các anh chính là những "Anh-hùng vô danh". Tổ-quốc Việt-Nam, Dân-tộc Việt-Nam ngàn đời sẽ còn ghi ơn các anh. Xin vĩnh-biệt và cảm-tạ. 

Lê Xuân Nhị