January 13, 2013

Em sẽ chờ Anh trở lại...

(Gởi về Anh LKL & LPO)

Em sẽ chờ một ngày anh trở lại,
Khi mùa xuân bừng nắng ấm trên cao.
Khi quê hương thôi hết những thương đau,
Hoa nở thắm chào mùa xuân có thật !
Biển reo vui, sóng vỗ bờ xanh ngắt,
Rừng cây xưa rung lá hát tình ca.
Anh hãy về xây dựng lại mái nhà...
Xanh ruộng lúa đời ta nồng hạnh phúc.

Bờ đại dương bên kia...ôi xa thẳm !
Người lính già trăn trở với quê hương...
Nhớ thương về từng vùng đất, con đường,
Gót giày "saut" hằn in chưa phai dấu.
Ngũ yên sao...quê hương còn rỉ máu,
Còn giặc thù mang nặng trĩu tâm ai !
Ước mong rồi cũng sẽ có ngày mai...
Em đón anh với mùa xuân vĩnh cửu.

SH    tháng 01/2013

September 12, 2012

Mai mốt Em về...

Tặng anh Lê phi Ô, người lính già xa xứ nhưng trong Anh...hào-khí vẫn  ngút trời ! (qua bài thơ Ta Về). Song-Phượng - Paris

Mai mốt em về thăm lại quê xưa
Anh gởi gì không hoặc lời nhắn nhủ
Phía bờ xa có bờ sông quê cũ.
Vẫn ngóng chờ con đò nhỏ năm nao.
Mai mốt em về mây gió xôn xao
Sẽ đến hỏi thăm tin người lính chiến
Đã bao năm cánh chim bằng biền biệt
Biết tìm đâu giữa cuộc sống mênh mông.
Mai mốt em về anh nhắn gì không
Có muốn gởi chút tình người lữ thứ
Người lính gìa nơi chân trời viễn xứ
Hướng quê nhà nước mắt đọng bờ mi.
Mai mốt em về anh muốn gởi gì ?
Chia bạn bè chút bình minh tươi sáng
Chia chút thanh bình tự do yên ắng
Đời bớt đói nghèo đau khổ lầm than.
Mai mốt em về đem ánh nắng vàng
Rãi khắp mọi đàng trên quê hương Việt
Cả non sông một màu xanh biêng biếc
Đồng lúa ruộng vườn dậy tiếng hoan ca !

Song-Phượng  -  Paris 12/09/2012





August 23, 2012

Gởi người lính gìa viễn xứ...

Một buổi chiều mưa buồn xem phỏng vấn hai anh lính VNCH: Lê phi Ô và Trần Điềm trong DVD "Trực- diện kinh hoàng", vì cảm-xúc những gì trong quá-khứ nên em đã sáng tác bài thơ nầy...

Gởi người lính gìa viễn xứ...

Tôi đã lắng nghe tâm sự của anh
Người lính VNCH...xa cách mãi quê-hương
Một buổi chiều buồn trong căn gác nhỏ
Mưa gió rì rầm ngoài kia khung cửa
Lời của anh...dâng cảm xúc tận hồn

Tôi ở quê-hương thành phố Sàigòn
Và mãi nhớ những gì trong quá khứ
Ba bảy năm đất nằm im không ngủ
Bao trở trăn nhưng không nói nên lời
Vẫn thở dài, tiếc nuối mãi không thôi
Vì sao và vì sao anh nhỉ ???

Hơn hai mươi năm chiến tranh tù tội...
Xương chồng xương, loang máu thấm da người
Tàn chiến cuộc, lệ rơi nhiều trên mắt
Đoàn quân tan trong bất chợt ngỡ ngàng
Còn gì đâu...bao khí phách hiên ngang
Hờn sông núi ngậm hờn trong chín cõi

Đã qua rồi những tháng năm lửa khói
Bởi vần xoay vận nước nỗi trôi xoay...
Phút chạnh lòng...người lính gìa viễn xứ
Một đời anh...dâng hiến tuổi thanh xuân
Nào sá chi những hiểm nguy sinh tử
Cho quê-hương được hạnh-phúc rạng ngời

Dù nước mất nhà tan, dù uất hận chơi vơi
Miền Nam VN luôn mãi nhớ đến các anh
Và thầm ghi ơn những người nằm xuống...

Song H. - Hè 2012

April 25, 2012

NỬA ĐỜI SAU...

Gởi "người hùng Rừng Lá" Lê-phi-Ô
VINH-HỒ

"Nửa đời sau là nửa đời sông núi"
"Ngẩng đầu lên Tổ-Quốc vẫn kiêu-hùng"  (khuyết danh)


Danh-tướng, Giai-nhân cũng nòi đồng điệu
Kim Cổ Đông Tây cũng một bầu trời
Người anh-hùng Rừng Lá ngày xưa ơi !
Dù có chết cũng lăn vào lửa đạn

Người có cánh sao lại buồn tháng tháng
Đôi bàn chân chưa biết nói sầu bi
Đôi mắt tinh anh dẫn lối người đi
Hoàng-hôn xuống bình-minh lên rực rỡ

Giữa phong-ba tim hồng không than thở
Vững tay chèo thuyền vượt sóng đi lên
Bờ cỏ xanh non không tuổi không tên
Cũng biết gởi cho đời từng đóa nhỏ

Người có cánh, có trái tim hơi thở
Những tinh hoa kỳ diệu của Chúa ban
Phải bay lên từng phút thật huy-hoàng
Chúa thiên thương sẽ hộ trì ban phước.

Vinh-Hồ hội VNTD  

ĐỪNG TƯỞNG

Thương-Anh xin tặng chiến-sĩ Lê-phi-Ô
nhân mùa Quốc hận 30 tháng 04....

Đừng tưởng người đi sẽ bội thề
Không đâu ! Đời vẫn nặng tình quê
Lòng luôn khắc khoải đêm trăn trở
Phiêu bạc đó đây vẫn ngóng về...

Đừng tưởng người đi sẽ nhạt nhòa
Không đâu ! cho dẫu cách ngàn xa
Hằng đêm mài kiếm lòng nuôi hận
Hẹn một ngày về Phục Quốc Ca

Đừng tưởng người đi bỏ kiếm cung
Không đâu ! lửa hận vẫn còn nung
Máu sôi đỏ rực chờ bùng cháy
Chưa trả thù mang cho đến cùng

Đừng tưởng người đi quên lối về
Không đâu ! xóm củ nhớ đường quê
Làm sao quên được khi người mẹ
Mòn mỏi trông con lệ dầm dề....

Thương-Anh  -  VNTD

April 13, 2012

PENTAGON PAPERS

SAU 40 NĂM BÍ MẬT (Hoa-kỳ bán đứng miền Nam VN)  http://www.archives.gov/research/pentagon-papers/

     Đầu mùa hè 2011, Thế giới lên cơn sốt về việc Trung-cộng tạo căn thẳng tại Biển Đông thì ai nấy đều ngóng trông nơi Hoa-Kỳ với niềm hy vọng là Hoa-Kỳ sẽ là cứu tinh giúp họ đối phó với mộng bành trướng của Trung-cộng. Nhưng ngày 14/6/2011, Văn-khố Quốc-gia (National Archives) của Bộ Quốc-phòng Hoa-Kỳ cho giải tỏa (declassify) 7000 trang hồ sơ về những vấn đề của Việt-Nam và Đài-Loan hơn 40 năm trước làm cho niềm tin của nhiều người nơi Hoa-Kỳ tan thành mây khói. Sau đó National Security Archive ở George Washington University đưa ra thêm 28,000 trang hồ sơ, trong đó có những mẫu đối thoại đi vào chi tiết giữa hai Ngoại-trưởng Henry Kissinger và Chu-ân-Lai càng làm cho nhiều người nhìn ra sự thật phủ phàng Hoa-kỳ đã bán đứng Việt-Nam Cộng-Hòa và Đài-Loan để đổi lấy sự làm hòa và giao thương với Trung-cộng.
     Tài liệu này tung ra làm cho hồi-ký của Kissinger xuất bản năm 1979 (The Memoirs) không còn giá trị vì nhiều điều trong hồi-ký của Kissinger viết đều sai với những chi tiết trong tài-liệu này. Hồi-ký của Henry Kissinger viết là để đánh bóng cá nhân và để chạy tội cho bản thân. Tài liệu lịch-sữ của Văn-khố cho thấy chính sách của Bộ Ngoại-giao Hoa-kỳ là đặt quyền lợi của nước Mỹ là tối thượng cho dù chính sách này đưa đến sự phản bội những đồng-minh cũng như phải dấu diếm và lừa cả chính dân chúng và Quốc-hội Hoa-kỳ.
     Đầu thập niên 1970s, Hoa-kỳ thay đổi sách lược bắt tay với Trung-cộng đối phó với Liên-Xô buộc Hoa-kỳ hất Đài-Loan ra khỏi Liên-hiệp-Quốc và đưa Trung-cộng vào thay thế vị trí này. Cách đây 40 năm, Hoa-kỳ công nhận chỉ có một nước Trung-cộng và Đài-Loan chỉ là một Tỉnh của Trung-cộng với một thể chế đặc biệt !  Hoa-kỳ đã theo đuổi chính sách này 40 năm và sẽ tiếp tục theo đuổi chính sách này cho đến khi Đài-Loan danh chính ngôn thuận thống nhất với Trung-cộng, và thường thì khi sự thống nhất xảy ra, Trung-cộng lúc đó có thể chế đa Đảng.

     Tài-liệu cũng cho thấy Trung-cộng đặt điều kiện giải quyết vấn đề Đài-Loan đi đôi với giải quyết chiến-tranh Việt-Nam. Hoa-kỳ quyết định bỏ rơi Việt-Nam Cộng-Hòa, để cho Cộng-sản Việt-Nam chiếm cả nước và Hoa-kỳ phủi tay trong một thời gian vài thập niên bỏ ngõ Đông-Nam Á và Biển Đông cho Trung-cộng tạo ảnh hưởng. Tài liệu cho thấy khi ấy Bắc Việt rất bối rối và chuẩn bị đầu hàng vì không chịu nổi B52 bỏ Bomb ở Hà-Nội, và Hoa-kỳ tiếp tục bỏ Bomb 2 tuần lễ nữa thì Hà-Nội có lẽ đã đầu hàng, nhưng vì đã thỏa thuận với Bắc-Kinh nên Henry Kissinger và Tổng-Thống Richard Nixon ngưng bỏ Bomb như một hình thức vất đi chiến thắng đang ở trong tầm tay ! Cũng vì chính sách này nên tháng Giêng năm 1974, Trung-cộng đưa Hải-quân đánh Hoàng-Sa, Hải-quân VNCH chiến đấu và kêu gọi Đệ-thất Hạm-đội của Hải-quân Hoa-kỳ đang ở gần đó tiếp cứu nhân đạo, Đệ-thất Hạm-đội nhận đủ tín hiệu xin cấp-cứu nhưng vẫn làm ngơ để mặc cho các thương binh VNCH chết đau thương và oan-ức tại Biển Đông.
     Tại sao Hoa-kỳ tiết lộ những bí mật này ? có phải họ có lòng thành muốn tiết lộ những bí mật đầy lừa lọc và phản trắc đối với các Đồng-minh của họ ?  Bí mật lịch-sử đã vén màn, liệu những Đồng-minh của Hoa-kỳ có còn tin tưởng nơi Hoa-kỳ như họ đã có trước đây ?
     Thật ra Hoa-kỳ ở trong tình thế không thể giữ bí mật lâu dài được nữa vì trước đây những chi tiết này đã rò rỉ ra ngoài hết rồi và nếu cứ tiếp tục dấu diếm những điều mà mọi người đã đoán biết được thì hệ quả của nó còn tai hại hơn cả việc tiết lộ.  Cách đây 40 năm Ông Daniel Ellsberg đã tiết lộ những bí mật này cho The Washington Post, The Times, New York Times, và nhiều cơ quan truyền thông khác tạo một cú sốc trong quần chúng Hoa-kỳ. Ngày hôm nay Văn-khố Quốc-Gia tung ra những tài-liệu cách đây 40 năm chỉ là để xác nhận cách chính thức những tài-liệu Ông Daniel Ellsberg tung ra trước đó là chính xác.

     Ông Daniel Ellsberg là người gốc Do-Thái sinh trưởng tại Chicago (sinh ngày 7/4/1931), là một người phân tích Tình-báo chiến-thuật chiến-lược của Quân-đội. Ông từng là nhân viên của RAND Corporation. Rand là chữ viết tắt của Research and Development, một công-ty bất vụ lợi chuyên phân tích tình hình cho Quân-đội Hoa-kỳ và Doughlas Air Company là một công-ty chế tạo các vũ-khí cho Bộ Quốc-phòng Hoa-kỳ, Rand có 1600 nhân-viên và trong 1600 nhân-viên này có những người làm Tình-Báo cho Hoa-kỳ.
     Năm 1954, sau khi tốt nghiệp ở Harvard, Daniel Ellsberg gia nhập Hải-quân Hoa-kỳ, Ông ra trường đứng đầu lớp cả 1000 người, mang cấp bậc Thiếu-úy. Sau 2 năm phục vụ cho Hải-quân, Ông trở về công việc dân sự, Ông tiếp tục học ở Harvard và tham gia giúp Rand chuyên phân tích tình hình quân-sự. Năm 1964, Ông chính thức làm cho Bộ Quốc-phòng và Ông tham gia biến cố Hạm-đội USS Maddox xảy ra ở vùng vịnh Bắc Việt (Gulf of Tonkin) năm 1964. Khi ấy Hoa-kỳ nói rằng Bắc Việt tấn công Hạm-đội USS Maddox để lấy cớ đánh Bắc Việt nhưng bây giờ tài-liệu đã giải mã, chính Hoa-kỳ dàn dựng vụ này hơn là Bắc Việt. Năm 1965, Ông được chuyển sang làm việc Bộ Ngoại-giao đặc trách phân tích tình hình Việt-Nam. Năm 1967, Ông trở về làm cho Rand và cho Bộ Quốc-phòng, trực tiếp chịu trách nhiệm với Bộ-trưởng Quốc-phòng.
     Năm 1969, Ông không có thiện cảm sách lược của Hoa-kỳ với cuộc chiến Việt-Nam và sau khi nghe Randy Kehler (sinh năm 1944), một trong những người phản chiến thuyết trình rất hùng hồn, Ông Daniel Ellsberg trở thành một trong những người chống chiến tranh. Sau khi đã có thiện cảm với nhóm phản-chiến và ở cương vị một người có thể tiếp xúc được những tài-liệu tối mật của Quốc-gia, cùng với Anthony Russo (1934-2008) làm ở Rand. Daniel Ellsberg bí mật giao lại (copy) nhiều tài-liệu tối mật và rò rỉ ra ngoài cho báo chí biết. Tài-liệu rò rỉ bí mật nầy được giới truyền thông Hoa-kỳ đặt tên cho là PENTAGON PAPERS. Năm 1970, Daniel Ellsberg cố gắng ảnh hưởng trên các Thượng Nghị-sĩ bằng cách thuyết phục các Đổng-lý Văn-phòng (chief-of-staff) của các Thượng Nghị-sĩ những tàn hại về chiến-tranh Việt-Nam.

     Chủ-nhật ngày 13/6/1971, lần đầu tiên báo Times đăng trích đoạn từng phần của 7000 trang. Tổng-thống Richard Nixon và Henry Kissinger bị cú đấm bất ngờ, lập tức phản ứng một cách hung hãn, cách chức nhiều người họ nghi ngờ. Nixon nói: "hảy cách chức ngay những tên đầu não". Nội các của Nixon nộp đơn khẩn cấp xin Tối cao Pháp-viện ngăn cấm không cho Times và các Báo chí không được đăng tải những tin tối mật của Quốc-phòng. Times và các cơ-quan truyền thông báo chí nhất quyết không chịu tiết lộ Daniel Ellsberg là nguồn gốc nhận tin của họ. Daniel Ellsberg phải trốn chui trốn nhủi trong bí mật suốt 2 tuần. Sau 2 tuần, Tối-cao Pháp-viện phán quyết Times có quyền tiếp tục đăng tải những thông tin tối mật của Bộ Quốc-phòng được rò rỉ tới họ vì đây là Tự-do ngôn-luận được bảo-vệ bởi Tu Chính-Án thứ Nhất. Phán quyết nầy như một cú tát tai vào mặt Nội-các của Tổng-thống Richard Nixon.

     Ngày 28/6/1971, Daniel Ellsberg và bạn đồng nghiệp Anthony Russo nộp mình cho FBI ở Boston Massachussett. Chính-phủ Liên-bang Hoa-kỳ truy tố 2 người vi-phạm Đạo-luật Tình-báo năm 1917 (Espionage Act 1917). Sau 2 năm điều tra và nhiều biến chuyển, vào tháng 5 năm 1973, Chánh-án William M. Byrne, Jr. ra lệnh bãi nại vụ án. Sau vụ án này, Daniel Ellsberg đi thuyết trình nhiều nơi về các đề tài chính trị cũng như các bí mật lịch-sử liên quan đến Việt-Nam và Đài-Loan.

     Daniel Ellsberg và Anthony Russo đã tiết lộ bí mật cách đây hơn 40 năm và hiện nay Daniel Ellsberg còn sống và còn đi thuyết trình những vấn đề đó nên Văn-khố Quốc-gia chấp nhận Bạch-hóa hồ-sơ. Khi bạch-hóa hồ sơ thì một hình thức nào đó họ cũng xác nhận chính-sách của Hoa-kỳ là "Quyền-lợi của Hoa-kỳ là tối thượng" nên sẵn sàng bất chấp sự phản bội đối với đồng-minh để đạt mục-tiêu. Trong tương lai, những ai muốn làm đồng minh với Hoa-kỳ thì phải biết điều này mà trong luật họ gọi là "Caveat Emptor" - let the buyer bewware, làm bạn với Mỹ và nếu Mỹ đâm sau lưng một cách bất ngờ thì ráng chịu.

     LỜI KẾT: Hoa-kỳ là siêu-cường số 1 trên thế giới hiện nay nên không giao dịch hoặc làm bạn với Hoa-kỳ thì thiệt hại rất nặng nề. Làm bạn với Hoa-kỳ thì phải biết ưu và khuyết điểm của Hoa-kỳ, đừng đặt quá nhiều kỳ vọng nơi Hoa-kỳ để rồi không biết tự xây dựng thực lực cho chính bản thân mình thì có ngày vì quyền lợi của Hoa-kỳ, họ bán đứng không kịp trở tay thì đau lòng vô cùng. Trở lại vấn đề Biển Đông, chắc Hoa-kỳ và Trung-cộng đã có một thỏa thuận ngầm gì ở bên trong rồi nên Bộ trưởng Quốc-phòng của Trung-cộng là Trì-hạo-Điền mới dám mạnh miệng tuyên bố với Hoa-kỳ là "Hãy chia đôi Thái-bình Dương" và trong tháng 6 năm 2011 Bắc-Kinh đổ hơn 1000 tỷ Mỹ-kim mua công khố phiếu của Hoa-kỳ. Chỉ có chế độ đa Đảng và sự đoàn kết của người Việt trong và ngoài nước thì mới có đủ sức mạnh để bảo vệ chủ quyền của Việt-Nam trên 2 Quần đảo Trường-Sa và Hoàng-Sa. Thiếu một trong hai yếu-tố này, nguy cơ mất nước của Việt-Nam là rất gần kề ./.           


HOÀNG-DUY-HÙNG
(Lê phi Ô - trích từ trên Net)    
     

    

March 17, 2012

BÍ-ẨN 30.04.1975


Thế lực DO-THÁI thúc đẩy Hoa-kỳ bỏ rơi miền Nam Việt-Nam càng sớm càng tốt.   
1) MỠ ĐẦU
     Đối với đa số người Việt đã từng sống trải qua, ngày 30.04.1975 là một biến cố đau thương nhứt của một đời người. Cố giáo-sư Nguyễn-ngọc-Huy - một bình-luận gia am tường mọi biến chuyển quốc-tế, từng nổi tiếng với những bài bình-luận thời cuộc "Tình hình thế-giới trong tháng qua" đã đăng tải trên nhiều tờ báo Anh Mỹ - đã đề cập công khai trực tiếp hoặc kín đáo gián tiếp trả lời những câu hỏi về biến-cố lịch-sử đặc biệt nêu trên. Những câu hỏi lịch-sử này cũng đã được bàn cải sôi nổi từ 35 năm qua và chưa đi đến một kết luận nào hữu lý để được mọi khuynh hướng chấp thuận. Điển hình nhứt là ngay trong dịp hội-thảo "Việt-Nam 35 năm nhìn lại" (Vietnam a 35 years Retrospective Conferance) tại Washington D.C vào ngày 09.04.2010 quy tụ gần 200 nhân vật với thành phần nổi tiếng như cựu Đại-sứ Bùi-Diễm, cựu Đại-tá Không-quân Hoa-kỳ Tiến-sĩ Stephen Randolph, Trung-tá Biệt-cách Dù Nguyễn-văn-Lân Thứ-trưởng John Negroponte, Sử-gia Dale Andrade, Tiến-sĩ John Carland, cựu Bộ-trưởng Hoàng-đức-Nhã, Đại-tá Trần-minh-Công, Đại-tá Hoàng-ngọc-Lung...cũng không đưa ra được câu trả lời thoả mãn cho sự thắc mắc: Ai đã gây ra thảm họa 30.04.1975.
     Nhìn trở lại, người ta có thể nhìn thấy rỏ ràng trong thời gian đầu ngay 30.04.1975, phần lớn các khuynh-hướng, từ chính-trị đến tôn-giáo, đều tìm cách đổ trách-nhiệm lẫn nhau về tội đã làm mất miền Nam. Chỉ có giáo-sư Huy là sớm thấy rỏ nguyên nhân chính nào đã khiến xảy ra thảm-họa 30.04.1975, Giáo-sư Huy cho biết: Nguyên nhân chính là Hoa-kỳ đã có kế hoạch giải-kết (bỏ mọi cam-kết bảo-vệ miền Nam) để từng bước rời bỏ miền Nam VNCH. Và thế-lực nào ở Hoa-kỳ đứng sau kế hoạch bỏ rơi miền Nam, Giáo-sư Huy cho biết trên chính-trường Mỹ có hai sắc-tộc nổ bật nhứt. Đó là sắc tộc gốc Ái-nhĩ-Lan (Ireland) và sắc-tộc gốc Do-Thái (quỷ satan). * Trong dòng lịch-sử, cộng đồng người Mỹ gốc Ái-nhĩ-Lan đã rất nhiều lần thắng cử chức-vụ Tổng-Thống. * Bên cạnh đó cộng đồng người Mỹ gốc Do-Thái chủ trương nắm giữ các cơ cấu quan-trọng trong guồng máy điều khiển đất nước Hoa-kỳ. Họ gài được nhiều các nhân-sự vào bên hành-pháp cũng như lập-pháp. Trong các bộ phận quan-trọng như ngoại-giao, quốc-phòng và tài-chánh thường thấy đa số nhân-viên gốc Do-Thái và nhiều lần cấp bộ-trưởng cũng do người Mỹ gốc Do-Thái nắm giữ. Trong thượng-viện và hạ-viện có khá nhiều nghị-sĩ và dân-biểu gốc Do-Thái trong cả hai chính đảng. Vì vậy, thế lực của cộng-đồng người Mỹ gốc Do-Thái rất lớn và đã khiến cho chánh-sách đối ngoại của Hoa-kỳ luôn luôn bênh cực quyền-lợi của Do-Thái.
     Tham dự hoà-đàm Paris giáo-sư Huy nhận xét rằng Kissinger (một người Mỹ gốc Do-Thái lúc đó còn làm cố vấn an-ninh cho Tổng-thống Nixon) có thái độ đáng ngờ là cương-quyết thỏa hiệp riêng (*đi đêm) với cộng-sản Việt-Nam với bất cứ giá nào để quân-đội Hoa-kỳ rời bỏ miền Nam, dù biết rằng sau đó miền Nam sẻ lọt vào tay Hà-Nội. Theo kinh nghiệm chính-trị thì các Chính-tri-Gia gốc Do-Thái đều hành-động có chủ đích với kế hoạch rỏ rệt. Như vậy đàng sau Kissinger ắt phải là chủ-trương của thế-lực Do-Thái. Thế-lực này phải hiểu là không phải chỉ thuần-túy cộng-đồng người Mỹ gốc Do-Thái, mà là sắc dân Do-Thái trải dài trên thế-giới từ Tel-Aviv đến Washington D.C, Paris, London, Berlin, Moscow...với tổng số 13,1 triệu người, trong đó 5,4 triệu tại quốc-gia Do-Thái,  5,3 triệu tại Hoa-kỳ và 2,4 triệu rải dài tại 30 quốc-gia khác. Thế lực này được điều-khiển hữu hiệu từ Tel-Aviv với hai bộ phận đắc-lực gồm cơ-quan Tình-báo MOSSAD và Nghị-viện Do-Thái Thế-giới. Riêng dư-luận thế-giới đã sớm nhìn thấy rỏ Hoa-kỳ muốn rút lui bỏ rơi miền Nam từ khi bắt đầu chánh-sách Việt-Nam hóa chiến-tranh (mà họ phân-tích là thay đổi màu da Tử-sĩ !), nhứt là Hòa-đàm Paris (mà họ nhận-định là nhằm bảo-đảm Mỹ rút quân được an-toàn).
     Như vậy thảm-họa 30.04.1975 đã xảy ra, nguyên-nhân chính là Hoa-kỳ có chính-sách bỏ rơi miền Nam VNCH và thế-lực Do-Thái thúc đẩy chính sách đó được thực-hiện qua Kissinger.
2) TẠI SAO THẾ LỰC DO-THÁI MUỐN BỎ RƠI MIỀN NAM VN ?
@Thế-lực Do-Thái tại Hoa-kỳ: Hiện nay tại quốc-hội Hoa-kỳ có 15 Thượng-nghị-Sĩ và 33 Dân-biểu liên-bang gốc Do-Thái (xem web http://en.wikipedia.org/wiki/list of...liticians#list.), thực sự nếu nghiên-cứu sâu rộng sẻ thấy thế-lực Do-Thái tại Mỹ còn lớn hơn nhiều, họ thành công trong việc gài nhân-sự cấp lãnh-đạo ở các bộ phận yết-hầu của Hoa-kỳ (nội các) Họ còn nắm những lãnh vực Ngân-hàng, thị trường chứng-khoán, báo-chí, truyền-thanh, truyền-hình và điện-ảnh...Đặc-biệt nghành truyền-thông, quan-trọng nhứt là Điện-Ảnh Hollywood nằm trong tay thế-lực Do-Thái, đã có nhân-sự từ Đạo-diễn đến Diễn-viên đều có gốc Do-Thái, nổi tiếng nhứt như Steven Spielperg, Liz Taylor, Kirk Douglas, Micheal Douglas, harrison Ford...(xem website: http://en.wikipedia.org/wiki/list of Jewish American entertainers ). Họ biết rỏ rằng nắm được truyền-thông trong tay là hướng dẫn được dư-luận quần chúng trong mục-tiêu phục-vụ quyền-lợi cho người Do-Thái. Họ còn điều-khiển một phần lớn các viện nghiên-cứu nhằm đưa ra những đề-nghị cho chính-sách tương-lai cho chính-phủ Mỹ và dĩ nhiên phải phù hợp với quyền-lợi của người Do-Thái.
     Ngoài ra các cường quốc Âu-châu, thế-lực Do-Thái có ảnh-hưởng tuy âm thầm nhưng cũng rất mạnh mẽ. Điển hình là Tổng-thống Pháp Sakozy & Thủ-tướng Đức Schmidt đều gốc Do-Thái nên không bao giờ lên tiếng thực sự chống lại những vi-phạm cam kết của Do-Thái tại Trung-Đông. Chính vì vậy, đa số thành viên Liên-hiệp-Quốc đã cho rằng thế lực Do-Thái có ảnh hưởng quá lớn đối với chính sách và biểu-quyết về Trung-Đông của các cường quốc Âu Mỹ.
@Tại sao thế lực Do-Thái muốn Hoa-kỳ phủi tay bỏ miền Nam: Muốn biết rỏ, chúng ta hãy tìm hiểu lịch-sữ mất nước và dựng nước của người Do-Thái. Vào năm 135 dân-tộc Do-Thái chính thức bị mất nước và phải lưu-vong khắp nơi vì Đế-quốc La-Mã. Thảm-họa mất nước đó thường được dư-luận Thiên-chúa Giáo cho là sự trừng phạt dân Do-Thái đã đóng đinh giết chúa Jesus và kẻ phản bội Judas chính là một người Do-Thái. Chính vì chuyện này đã làm cho dân Do-Thái bị kỳ-thị trên bước đường lưu-vong, nhưng cũng chíng vì có niềm tin mãnh-liệt vào Do-Thái giáo họ đã đoàn-kết nhau lại dưới sự lãnh-đạo của học gỉa Theodor Herzi trong đại-hội thế giới đầu tiên tại Basel (Thụy-sĩ) vào năm 1897, Từ đó, từng đợt một họ trở về quê-hương Palestine. Thế chiến thứ hai với sự yểm-trợ tích-cực của Hoa-kỳ đã tạo cơ-hội ngàn năm một thuở để họ dựng lại đất nước vào ngày 14.05.1948 sau gần 2000 năm lưu vong. Chỉ 11 phút sau đó Tổng-thống Hoa-kỳ đã lên tiếng công nhận quốc gia mới này, bất chấp mọi chống đối của thế giới Ả-rập và đã yểm-trợ hữu hiệu cho Do-Thái chống lại cuộc tấn công ngay sau đó của các quốc gia Ả-rập láng giềng và trong các cuộc chiến xảy ra sau này.
     Như vậy, Do-Thái còn tồn tại tới ngày nay là nhờ Hoa-kỳ làm "lá bùa hộ mạng". Nhiều nghị-quyết tại Liên-hiệp-Quốc kết án Do-Thái vi phạm cam kết tại Trung-Đông nhờ Hoa-kỳ dùng quyền phủ-quyết nên đành phải bỏ. Trong quá khứ, Hoa-kỳ từng giải kết bỏ rơi đồng-minh như Lào, Cam-Bốt, Việt-Nam, Đài- Loan...nhưng luôn luôn hết lòng với Do-Thái, mặc dù quốc-gia nhỏ bé này không mang lợi ích gì về tài-nguyên hoặc vị-trí chiến-lược cho Hoa-kỳ, mà trái lại chính Do-Thái, Hoa-kỳ còn gây ít nhiều hiềm-khích với thế giới Hồi-giáo dân số rất đông đảo (1,3 tỷ) và rất quan-trọng về lãnh vực dầu hỏa. Tất cả cho thấy rỏ ràng vì thế lực Do-Thái nắm giữ được các bộ phận huyết mạch tại Mỹ nên chính-sách của Hoa-kỳ phải luôn luôn không được đi trái ngược với quyền-lợi của quốc-gia Do-Thái.
     Từ đó, chúng ta mới hiểu rỏ tại sao thế lực Do-Thái muốn Hoa-kỳ phải phủi tay bỏ miền Nam Việt-Nam. Đó là vì họ sợ Hoa-kỳ sa lầy và sự tốn kém khổng lồ tại chiến-trường Việt-Nam có thể đưa đến hậu-quả Hoa-kỳ không còn khả năng giúp đỡ một cách hiệu lực Do-Thái tồn tại như trong quá-khứ Hoa-kỳ đã từng làm. Cho nên họ chủ trương Hoa-kỳ phải giải kết bỏ rơi miền Nam để trở về chuyên tâm lo cho Do-Thái. Để thực hiện mục-tiêu này họ đã có kế-hoạch rỏ ràng từng bước một.
@Kế-hoạch Do-Thái thúc đẩy Hoa-Kỳ bỏ rơi miền Nam.
     Khởi đầu giải quyết cuộc chiến Quốc - Cộng tại Lào vào đầu thập niên 1960, ông Ngô-đình-Nhu đã ngạc nhiên và bất mãn thấy thái độ nhượng bộ quá mức của ông Averell Harriman đặc trách bộ phận Viễn-đông của Bộ Ngoại-giao Mỹ trong lúc đàm phán. Nên biết ông Averell Harriman (1891-1986) là một nhà tư bản lớn nổi tiếng gốc Do-Thái và cũng là đảng viên cấp Lãnh-đạo đảng Dân Chủ ở Mỹ. Rỏ ràng phía thế lực Do-Thái muốn ngăn chận không cho Hoa-kỳ can thiệp với nhiều tốn kém ở Viễn-đông. Sự nhượng bộ rút lui này đã khiến cộng-sản Việt-Nam kiểm soát được phần lớn các địa điểm chiến-lược tại Lào và thiết lập đường mòn Hồ-chí-Minh vận chuyển nhân-lực và vỏ-khí vào để đánh chiếm miền Nam vào 30.04.1975.
     Từ khi nhậm chức, Tổng-thống Johnson (dân Taxas) cùng ban tham-mưu luôn cứng rắn chủ chiến và không muốn Hoa-kỳ bị thua trận đầu tiên trong nhiệm-kỳ của mình. Thế lực Do-Thái lúc đó không có ảnh hưởng nhiều với Johnson nên phải chờ đợi cơ hội thuận tiện để tấn công từ bên ngoài dư luận quần chúng. Đó là lúc cuộc chiến Việt-Nam bùng nổ lớn từ cuối năm 1964 trở đi với các trận đánh dữ dội tại Bình-Giã, Đồng-xoài, Đức-cơ...bắt đầu gây tử-thương nhiều quân-nhân Mỹ, những hình ảnh quan tài phủ quốc-kỳ kèm theo sau hình ảnh dã man bất lợi của chiến-tranh (thổi phồng vụ Mỹ-Lai & vụ Tướng Nguyễn-ngọc-Loan) hệ thống truyền-thông Hoa-kỳ đa số gốc Do-Thái quản-trị khai thác triệt để ngày đêm tạo một phong trào phản-chiến lớn mạnh chưa từng thấy trên thế-giới. Không những tại Hoa-kỳ mà còn lang rộng khắp nơi trên nhiều quốc-gia khác.
     Tướng độc nhởn Moshe Dayan bộ-trưởng quốc-phòng của Do-Thái, đột ngột tự qua Việt-Nam 3 ngày (từ 25 tới 27 tháng 7 năm 1966) và cho báo chí chụp bức hình biểu diễn đang hành quân với lực-lượng US Marine. Sau chuyến hành quân "chớp nhoáng" đó, tướng độc nhởn Moshe Dayan viết ngay đề nghị Mỹ nên rút quân ra khỏi Việt-Nam vì không thể thắng cuộc chiến này được (rất là vô lý vì hiện diện xem xét chiến-trường VN chỉ có một ngày, mà dám đưa ngay đề nghị khủng khiếp như vậy). Dĩ-nhiên lời đề nghị chủ bại này càng được thổi phồng bởi phong-trào phản-chiến và làm mất uy-tín Tổng-thống Johnson. Tiếc thay sau này và mới năm ngoái đây, vẫn còn có những ký-giã và bình-luận Gia Việt-Nam ca ngợi những phân-tích và đề-nghị của ông Tướng một mắt này, mà không hiểu đó là một trong những thủ-phạm đã góp phần "khai tử" miền Nam !
     Phong-trào phản-chiến càng lên cao đã khiến Tổng-thống Johnson vào tháng 3 năm 1968 phải quyết định không ra tái ứng cử. Sự xáo trộn tranh chấp kịch liệt trong đảng Dân-chủ đã tạo cơ hội hiếm có để Ứng cử viên của đảng Cộng-hòa nắm chắc sự thắng cử. Vì vậy thế lực Do-Thái đã gài được Kissinger từ 1957 làm cố vấn cho Nelson A. Rockefeller (Thống-đốc New York) đang vận động ra tranh cử làm Ứng cử viên Tổng-thống của đảng Cộng-hòa. Nhưng không ngờ Nixon thành công hơn. Thấy vậy, Kissinger bèn trở cờ đầu quân theo Nixon và được trọng dụng làm cố-vấn An-ninh.
     Đến năm 1971, Kissinger bí mật qua Trung-Hoa tìm cách tái bang-giao với chính-quyền Bắc-kinh và đưa đến thỏa-hiệp Thượng-Hải 1972 giữa Mao-trạch-Đông và Nixon. Trên bề mặt, thỏa-hiệp này chỉ công nhận một nước Trung-Hoa cho thấy Hoa-kỳ bỏ rơi Đài-Loan trên chính trường Thế-giới, nhưng bên trong thực-tế Kissinger nhằm sửa soạn cuộc rút lui an-toàn cho quân-đội Mỹ ra khỏi miền Nam với sự bảo-đảm của Trung-cộng. Quả nhiên, chỉ sau đó chưa đầy một năm, Kissinger đã dùng đủ mọi mánh khoé, kể cả đe dọa tánh mạng các cấp lãnh-đạo VNCH, thành công trong việc ép buộc VNCH ký kết hiệp-định Paris ngày 27.01.1973 để quân-đội Hoa-kỳ an toàn rời khỏi miền Nam. Phía dư-luận báo chí quốc-tế đã sớm thấy rỏ âm-mưu của Kissinger và đã ví bản hiệp-định này như tờ khai-tử cho miền Nam Việt-Nam. Chính ngay Kissinger cũng đã tiết lộ bề trái của bản hiệp-định cho cố-vấn đặc-trách nội-vụ John Ehrlichmann của TT Nixon như sau:"Tôi nghĩ rằng nếu họ (chính-phủ VNCH) may mắn thì được một năm rưỡi mới mất". Tương tự, Kissinger đã trấn an TT Nixon là:"Hoa-kỳ phải tìm ra một công thức nào đó để làm cho yên bề mọi chuyện trong một hai năm sau, sau đó thì...chẳng ai cần đếch gì nữa. Vì lúc ấy, Việt-Nam sẻ chỉ còn là bãi hoang vắng".
     Bởi vậy thảm-họa 30.04.1975 xảy ra là điều tất-nhiên đúng như tính toán dự trù của Kissinger và thế lực Do-Thái. Chỉ sau hiệp-định Paris chỉ 9 tháng, cuộc chiến Jom Kippur vào ngày 06.10.1973 giữa Do-Thái và các quốc-gia Ả-Rập láng giềng xảy ra. Lần đầu tiên trong lịch-sữ tái lập quốc, Do-Thái bị thua trận và mất một số lớn phần đất chiếm đóng trước đây. Đáng lý Do-Thái còn phải thua nặng nề hơn nữa, nhưng giờ phút chót còn có Kissinger thuyết phục được Nixon nổ lực can thiệp giúp Do-Thái nên tình thế không còn bi-đát nhiều. Tuy nhiên, sau đó Tướng độc nhởn Moshe Dayan phải từ chức Bộ trưởng Quốc-phòng vì chịu trách-nhiệm bị thua trận.
3) KẾT LUẬN:
     Biến-cố thua trận đầu tiên Jom Kippur năm 1973 cho thấy thế lực Do-Thái nhìn rất xa và rất có lý với nỗi lo sợ Hoa-kỳ vì sa lầy ở chiến-trường Việt-Nam nên không còn có thể chuyên tâm giúp cho Do-Thái thắng trận như trước đây. Cho nên không gì ngạc nhiên khi thế lực Do-Thái phải vận dụng toàn diện từ trong lẫn ngoài để thúc đẩy và buộc giới lãnh-đạo Hoa-kỳ phải bỏ rơi miền Nam.
     Bí ẩn về lý do và động lực thúc đẩy Hoa-kỳ phải rút quân bỏ rơi miền Nam được che dấu tinh vi, bởi vì phần lớn hệ thống truyền thông báo chí quan-trọng nằm trong tay thế lực Do-Thái hoặc bị họ ảnh hưởng kiểm soát không cho phép họ làm hoặc sợ bị họ mang tiếng bài Do-Thái (Anti-Semitism). Cho nên đến 35 năm sau dư luận vẫn còn bị xí gạt. Điển hình, về phía dư luận ngoại quốc vẫn còn có những vị học giã (thí dụ: Tiến-sĩ Stephen Randolph trong hội thảo "Việt-Nam 35 năm nhìn lại" - "Vietnam, a 35 years Restrospective conferance") tại Washington D.C vào ngày 09.04.2010 lầm lẫn hoặc cố tình cho rằng Hoa-kỳ vào năm 1972 muốn tái lập bang giao với Trung-cộng nên phải rút quân ra khỏi miền Nam (chịu thua) vì đang câu con cá to hơn ("has bigger fish to fry"). Thực tế Hoa-kỳ đã có kế hoạch bỏ rơi miền Nam từ khi Kissinger bước vào tòa Bạch-Ốc  năm 1969 với gia tăng Việt-Nam hóa chiến-tranh.
     Về phía Cộng-sản Bắc-việt ngoại trừ lợi thế sẵn có của đường lối độc-tài cuồng tín trong chiến tranh dám vô nhân-đạo dùng chiến-thuật biển người hy-sinh "nướng quân" hàng loạt trên chiến-trường (theo nhận xét của Tướng Westmoreland) họ không ngờ có được sự giúp đỡ hữu-hiệu của thế-lực Do-Thái tạo ra phong trào phản-chiến đưa tới tình trạng "Đồng-minh tháo chạy" bỏ rơi VNCH (danh từ của Tiến-sĩ Nguyễn-tiến-Hưng). Thực tế nếu không có sự phản bội của thế lực Do-Thái qua sự nắm quyền của ê-kíp Kissinger thì chưa chắc gì cộng-sản VN sớm thắng trận. Như vậy miền Nam chỉ cần cầm cự được vài năm cho đến khi Tổng-thống Reagan nắm quyền và với tài lãnh-đạo xuất sắc cương quyết nổi tiếng của ông này chắc chắn miền Nam sẻ được yểm-trợ đầy đủ (đã xảy ra như vậy tại Nam-Mỹ và A-phú-Hản) để không thể dể dàng rơi vào tay cộng-sản như đã xảy ra trong ngày 30.04.1975.
     Đa số người Việt chúng ta có thiện-cảm với dân-tộc Do-Thái qua tác-phẩm lừng danh "Về miền đất hứa / Exodus" của tác-giả Leon Uris vì ngưỡng mộ tinh thần đoàn-kết và chiến đấu dũng-cảm của họ sau 2000 năm lưu-vong đã thành công trở về tái dựng lại quốc-gia Do-Thái. Trong tình-cảm nồng nàn đó, Học-giả Nguyễn-hiến-Lê vào năm 1968 mang sức ra viết tác-phẩm "Bài học Israel". Nhưng thực-tế chính-trị cho thấy tham-vọng thủ-đoạn của Do-Thái sau khi tái lập quốc, nên chính ông đã không ngần ngại lên tiếng chỉ trích nặng nề. Đó cũng là tâm-trạng của chúng tôi khi biết qia Giáo-sư Nguyễn-ngọc-Huy và Linh-mục Cao-văn-Luận khám phá ra mưu sâu của thế lực Do-Thái khiến xảy ra thảm-họa 30.04.1975 cho quê hương Việt-Nam và dẫn tới hiểm họa mất nước vào tay Trung-cộng.
     Chúng tôi tin rằng Giáo-sư Nguyễn-ngọc-Huy và Linh-Mục Cao-văn-Luận đã đi bước tiên phong tiết lộ những bí ẩn về thảm-họa 30.04.1975 và trong tương lai sẻ được giới truyền-thông báo-chí chú tâm nghiên-cứu khai-triển tích-cực để lịch-sử Việt-Nam và Thế-giới mai sau không còn bị sai lầm nữa !

Phạm-Trần Hoàng-Việt - Phonang 30/12/2011
(Lê phi Ô - trích từ trên Net)

May 01, 2011

Những Anh-Hùng Vô Danh

Trường-Sơn Lê-Xuân-Nhị "Thành kính tưởng niệm các chiến-sĩ Địa-Phương-Quân anh dũng Đồn Dak-Seang"
.....................................................................................
Ngày cuối cùng của cuộc biệt phái, chúng tôi cất cánh phi vụ thứ hai vào khoảng 3 giờ chiều.  Lên trời, làm vài vòng, tôi hỏi Đại-úy Ngọc:
- Hay mình làm vài vòng, nếu không có gì thì đi kiếm cái chòi Thượng nào đó "duy trì khả năng" rồi về đáp. Mai đổi biệt-đội khác rồi.
Đại-úy Ngọc đột nhiên phản đối:
- Thôi cứ để đó, mày bay dọc lên Dak-Pek đi. Tao đi quan sát lần chót để bàn giao vùng trách nhiệm cho phi-hành đoàn mới.
Có cái gì thắc mắc trong đầu anh mà tôi không nghĩ ra, lát sau anh nói:
- Mày để ý thấy chiến-trường lần này, đặc-biệt là mấy ngày hôm nay yên lặng một cách quá đáng không ?
Tôi chả biết gì, trả lời:
- Yên thì có yên đó, nhưng mà có gì không anh ?
- Thường thường mà yên quá như thế này là thế nào cũng có đánh lớn.
Tôi nói xuôi:
- Mai mình về rồi, nhằm nhò gì.
Khoảng 5 giờ chiều tôi đang lơ lửng gần một cái đồn nhỏ gọi là đồn Dak-Seang, phía nam của Dakto. Đại-úy Ngọc chợt giật cần lái, quẹo một vòng.
- Để tao coi. Đ.M. hình như đồn nầy đang bị pháo kích.
Chỉ một thoáng sau anh la lên:
- Đ.M. đúng rồi. Đ.M. nó đang pháo vô đồn.
Anh Ngọc gọi máy về Trung-tâm Hành-quân, báo cáo những gì mình thấy và xin tầng số liên lạc ngay. Chỉ trong vài phút, Trung-tâm Hành-Quân xác nhận với chúng tôi là đồn bị pháo kích, và có nhiều dấu hiệu cho thấy là đồn sẻ bị tấn công. Chúng tôi được chỉ thị ở lại làm việc với đồn. Bắt được liên lạc, trao đổi danh hiệu xong là chúng tôi giảm cao độ. Vừa tà tà bay vô thì bổng hàng chục cây phòng không nhắm vào chúng tôi nổ tới tấp. Chắc chắn phải có vài viên trúng tàu vì tôi nghe lên vài viên bụp bụp. Tôi càu nhàu: "15 ngày biệt phái không sao, ngày cuối cùng mà lãnh một viên vào...đít là xui quẩy". Vô không nổi, tôi quẹo ra. Đại-úy Ngọc phê bình:
- Trên trời mà phòng không "kềm cứng một rừng" như vậy là dưới đất nó đã chuẩn bị trận địa pháo rồi. Lạng quạng thì đồn này mất tối nay.
Anh giở tấm bản đồ, ba cái FM trên phi-cơ được xử dụng liên tục. Cái gọi Pháo-binh, cái trực với đồn Dak-Seang, cái nói thẳng với Bộ Tư-lệnh chiến-trường. Cường độ pháo kích càng ngày càng trở nên khốc liệt, Tôi lên cao chút xíu rồi rình rình lại chui vào từ một hướng khác. Bố khỉ, tôi lúc ấy mới khám phá ra là khu vực làm việc bị mây "broken" từng cụm nhỏ bao phủ khoảng từ 5 đến 8 ngàn bộ trên trời. Đang quan sát, tàu chui vào mây là coi như mù. Ra khỏi mây thì phải mất một lúc mới trở lại được chổ quan sát cũ. Đại-úy Ngọc chửi thề:
- "Đ.M. mây mà cũng bị việt-cộng dụ dỗ đâm sau lưng chiến sĩ. Trời đất bao la sao không kiếm chổ bay mà cứ lẩn quẩn làm cái con C. gì ở đây".
Tôi đã cắt ga xuống dưới trần mây mấy lần nhưng vừa xuất hiện là bị hàng chục họng phòng không thổi rào rào vô mặt, đuổi trở lên "súng đâu mà chúng nó lắm thế" Tôi đành vật lộn với đám mây...việt-cộng này.
Bi thảm hơn, giặc bắt đầu nã 130 ly vào đồn, Hai cây đại pháo, một cây đặt ở ven làng cách đó 15 cây số, cây kia ở hướng đối diện cứ tà tà nã từng trái đạn một vào đồn. Từ trên, tôi nhìn thấy rỏ ràng những quả đạn rơi rất chính xác vào trong đồn. Cứ mỗi quả đại bác rơi xuống là có chừng mười mấy trái súng cối nổ kèm theo "phụ diễn". Tôi và anh Ngọc lồng lộn trên tàu bay. Máy vô tuyến gọi đến gần nát cả cổ họng, nhưng bất ngờ quá, chả thấy phi tuần xuất hiện, anh Ngọc gọi pháo từ căn cứ Pháo-binh gần đó nhất để yểm trợ. Vừa nhận được tọa độ, đã nghe ở dưới đất kêu trời:
- Vô ích bạn ơi. Xa quá, bắn tới Tết...cũng huề.
- Thì bạn quay nòng xuống thổi đại cho một chục tràng đi, bắn dọa nó cũng được.
- Xong rồi để tôi lấy yếu tố tác xạ.
- Yếu tố mẹ gì, bắn đi bạn...
Khoảng 5 giờ rưỡi chiều, người chỉ huy đồn Dak-Seang có vẻ bối rối:
- Bạch Ưng, đây Thạnh Trị.
- Nghe 5 bạn.
- Báo cho bạn biết đến giờ phút này con cái tôi đếm được là 500 trái rồi đó bạn. Hầm hố tôi 50% thiệt hại.
Tôi muốn nhảy nhổm trong tàu bay. 500 trái vừa Pháo vừa Cối xuống một diện tích tí teo như thế kia thì còn hầm còn hố nào. Anh Ngọc bổng nảy ra một kế...chết người.
- Nếu để nó pháo điệu này thì chừng tí nữa quân mình chẳng còn gì hết. Mình phải "Chiến-tranh Chính-trị" mới được.
- Có học trường Chiến-tranh Chính-trị ngày nào đâu mà đòi...chiến-tranh chính-trị anh ?
Người phi công chiến-tranh chính-trị bất đắc dĩ lên mặt dạy dỗ:
- Từ từ để tao cắt nghĩa. Chiến-tranh chính-trị nghĩa là...có là không, không là có. Bây giờ chưa có phi tuần thì mình phải làm như có phi tuần. Mình phải xuống ngay trên đầu mấy cây pháo làm bộ như phi tuần sắp tới thì pháo nó mới câm được.
- Xong rồi.
Mặc dù vẫn còn ngán mấy chục họng phòng không nhưng trong hoàn cảnh nầy, đạn tránh người chứ người làm sao tránh đạn ? Tôi cắt ga cho tàu rơi cái rào, cứ nhắm họng đại bác bay tới. Đạn nổ tùm lum chung quanh tàu. Anh Ngọc trấn an tôi:
- Mày đừng lo, tao có bùa nanh heo rừng, đạn nó né tao.
Nghe sao mà chán đời, Tàu bay chỉ có hai người, đạn nó bay vào đây mà né anh Ngọc thì nó nhất định phải kiếm người khác để chui vào. Người đó còn ai khác hơn tôi.
Bổng nhớ ra điều gì, anh sờ tay vào ngực quờ quạng rồi rú lên:
- Bỏ mẹ rồi, nanh heo rừng đíu có mang theo. Đ.M. hôm qua đi tắm treo nó chổ phuy nước quên đeo vô rồi.
Nhưng anh nói ngay
- Nhưng tử-vi nói tao sống thọ lắm, yên chí lớn đi thằng em.
Tôi nghiệm ra rằng con người, lúc ở trong những hoàn cảnh nguy hiểm đều kiếm ra một lý do nào đó để tự tin và hy vọng. Càng đi xa đồn thì phòng không càng bớt dần. Thấp thoáng con gà cồ của giặc đã nằm ngay dưới cánh, chúng tôi xuống thấp thêm tí nữa, lượn vòng chung quanh cây pháo. Đúng y như anh Ngọc đoán, pháo im bặt. Rồi như một cơn mưa rào đổ xuống mùa hạn hán, một hợp đoàn Cobra của Tây xuất hiện, Đại-úy Ngọc qua được tần số của Tây xí xa xí xồ một chập, tôi nghe được mấy tiếng "everywhere". Vừa vào vùng là mấy anh Cobra làm ăn liền. Tôi ngạc nhiên thấy họ thay phiên nhau bắn rào rào chung quanh đồn. Như vậy con cháu họ Hồ đang "tùng thiết" đi vô chăng ? Dĩ nhiên phòng không giặc bây giờ đổi mục tiêu, nhắm mấy anh Cobra nhả đạn. Trận thư hùng coi rất đẹp mắt nhưng ngắn quá. Mấy ông Tây bắn chừng 5 phút là hết đạn, quay lui. Khốn nạn hơn, cái món chiến-tranh chính-trị xem ra hết ép phê. Có lẽ giặc biết chúng tôi chỉ dọa giả nên cây pháo bắt đầu nổ trở lại. Đại-úy Ngọc gầm lên:
- Đ.M. tụi mày, lát nữa khu trục lên tao cho nó...bỏ bomb thấy mẹ mầy.
Tức quá mà không làm gì được thì...chửi cho đã tức. Chúng tôi chỉ có bốn quả Rocket khói, chẳng xơ múi gì được. Rồi Peacock gọi thông báo sẻ có phi tuần khu trục A-1 đã cất cánh khẩn cấp từ Pleiku lên làm việc với chúng tôi. Đại-úy Ngọc hớn hở gọi máy:
- Thạnh trị, đây Bạch Ưng
- Nghe 5 bạn, gần ngàn trái rồi. Tụi nó mới xung phong đợt đầu đó bạn.
- Có sao không bạn ?
- Không, mấy thằng chuồn chuồn tới đúng lúc với lại con cái tôi đánh giặc còn "tới" lắm bạn ơi. Tụi nó rút hết rồi. Khoảng chừng 50 xác nằm dài dài. Mấy thằng Tây đánh đẹp lắm.
- Chúng tôi sẻ có hai phi tuần lên liền bây giờ bạn.
- Bạn ráng dùm, hầm hố gần nát hết rồi bạn
- Tôi hiểu bạn.
Cây 130 quái ác vẫn đì đạch phọt ra từng cụm khói đen. Tôi bảo anh Ngọc:
- Anh để em lên làm đại một trái khói vô đó coi, may ra...
- Ờ, may ra... 
Tôi làm vòng bắn, nghiêng cánh quẹo vào, nhắm và bóp cò. Oành...trái Rocket nổ gần cây đại pháo. L-19 mà bắn được vậy là nhất rồi, nhưng có chết thằng chó nào đâu ! không chết nhưng cây pháo lại im tiếng một lần nữa. Tốt ! tôi tính cứ lâu lâu nhào xuống xịt cho tụi nó một trái để mua thời gian chờ khu trục lên. Rồi tiếng rè rè thử vô tuyến của mấy ông khu trục A1 nghe lên bên tai. Phải thú nhận, cái tiếng rè rè đực rựa lúc này nghe sao mà nó...đáng yêu thế. Đó là thứ tiếng nói của hy vọng, của niềm tin, của sức mạnh, của tình chiến hữu. Anh Ngọc trao đổi vô tuyến với phi tuần khu trục rồi gọi máy cho quân bạn.
- Thạnh trị, đây Bạch-Ưng
- Nghe bạn 5
- Chim sắt của tôi lên rồi đó bạn, bạn muốn tôi đánh đâu ?
- Bạn lo giùm mấy con gà cồ trước đi.
- O.K ! roll
Phi tuần khu trục vừa xuất hiện thì cả bầu trời biến thành một biển lửa. Số lượng phòng không bây giờ không biết bao nhiêu cây, nhưng dòm hướng nào cũng thấy lửa và lửa. Trời đã về chiều nên những viên đạn lửa bay vút lên cao càng được thấy rỏ ràng hơn. Phi tuần đầu nhào lên nhào xuống mấy lần vẫn không làm câm họng được cây pháo phòng không vì trời quá xấu. Những đám mây...phản Quốc, khốn nạn vẫn chình ình khắp nơi. Khó khăn lắm họ mới kiếm được cái lỗ chui xuống, bay giữa những loạt đạn phòng không trùng điệp, để tới mục tiêu, bấm rơi bomb, rồi kéo lên. Còn hai trái cuối cùng, người phi công A-1 "để" vào ngay trên ổ súng chính xác như để bi vào lỗ. Ầm...một tiếng vang lên rồi tiếp theo là nhiều tiếng nổ phụ. Cha con nó đang đền tội. Xong một cây, anh Ngọc hướng dẫn phi tuần thứ hai đang làm ăn thì tôi nghe tiếng gọi:
- Bạch-Ưng, đây Thạnh trị
- Nghe 5 bạn
- Báo cho bạn biết, hầm chỉ-huy tôi sập rồi. Tôi ra giao thông hào với mấy đứa con.
- Bạn mhớ giữ liên lạc với tôi.
- Bạn...
Không có tiếng trả lời. Tôi hoang mang. "ra giao thông hào với mấy đứa con" vậy là bi đát lắm rồi. Anh Ngọc bảo tôi:
- Anh đang bận hướng dẫn khu trục, em qua FM gọi thằng Trung-tâm hành quân xin gấp cho anh ít nhất là 2 phi tuần nữa, lên liền lập tức, nếu không kịp là bọn nó sẽ "over run" Dak-Seang trong vòng nữa tiếng đồng hồ.
Tôi đổi tần số FM, anh Ngọc cẩn thận dặn dò thêm:
- Phải nhớ la ơi ới lên như là đang bị bóp...dái thì cha con nó mới chịu chạy dùm.
Tôi phì cười, ông Đại-úy nầy lúc nào cũng đùa được. Khỏi cần bị ai bóp dái tôi cũng la được vì hò hét và tả oán là sở trường của tôi. Tôi gọi máy và có kết quả ngay. Anh Ngọc mừng rú lên khi được thông báo có một phi tuần F4 của Hải-quân Mỹ sẻ cất cánh ngay từ Hàng-không Mẫu hạm vào làm việc. Giọng nói từ dưới đất bây giờ nghe có vẻ hốt hoảng:
- Bạch-Ưng, đây Thạnh Trị
- Nghe bạn 5
- Bạn cho mấy con chim sắt đánh sát quanh đồn gấp đi bạn. Tụi nó đang "à lát xô" lên.
Anh Ngọc la ùm lên trong tần số khu trục. Hai chiếc khu trục A-1 còn mấy trái bomb bỏ dở...hối hả trở về đồn nhào xuống đánh sát chung quanh rào. Một ông la to khi kéo tàu lên:
- Tụi nó đông như kiến bạn ơi.
- Còn phải hỏi.
Khu trục đánh hết bomb nhưng vẫn bay trên mục tiêu để bắn hết những tràng Cà-nông 20 ly. Tình hình lúc này đã bi đát lắm rồi. Giặc xung phong lên ào ào. Thạnh Trị thông báo là một góc phòng tuyến đã bị vỡ và con cái anh đang xáp-lá-cà với giặc. Tôi nghe Trung-tâm Hành-quân (TTHQ) thêm 3 căn cứ khác cũng bị tấn công một lúc. Anh Ngọc bảo tôi:
- Tao còn lạ gì cái trò này, tụi nó đánh nghi binh để dứt điểm Dak-seang đó. Phải cẩn thận.
Trong vô tuyến, tiếng tàu bay gọi nhau, tiếng trao đổi gã trên trời và dưới đất nghe loạn cào cào...Bởi trong những tiếng ồn ào đó, có tiếng gọi của mấy ông F-4 Hoa-kỳ. Mấy ông Tây trang bị vũ-khí tận răng. Hai chiếc F-4 mỗi chiếc mang 18 trái 500 pouds đang làm vòng chờ ở khoảng 20 ngàn bộ. Anh Ngọc chỉ "briefing" một tí, mấy ông "Roger" và "Sir" lia lịa nhào xuống làm ăn liền. Khu trục Việt-Nam đánh đã đẹp, mấy ông Tây đánh cũng không thua ai. Từ khoảng 15 ngàn bộ, mấy ông nhào xuống dưới trần mây, thả những trái bomb thật chính xác. Phòng không bắn đữ dội nhưng xem ra không ăn thua gì với mấy chiếc F-4 nầy. Đang đánh ngon lành thì tôi nghe tiếng gọi từ dưới đất:
- Bạch-Ưng, đây Thạnh Trị
Giọng nói lúc này không có vẻ hốt hoảng mà bình tỉnh lạ thường. Anh Ngọc bấm máy:
- Nghe bạn 5, cho biết tình hình đi bạn.
- Tôi yêu cầu Bạch-Ưng cho đánh ngay vào trong đồn.
Cả hai chúng tôi giật nẩy mình, chỉ hy vọng là mình nghe...lộn. Chúng tôi sửng sờ không trả lời được. Người chỉ huy dưới đất xác nhận lại:
- Bạch-Ưng, tôi xác nhận lại, tôi xin bạn đánh xuống đầu tôi.
- Bạn nói bạn xin đánh thẳng vào đồn ?
- Đúng 5, hết hy vọng rồi bạn ơi. Cứ đánh vào đây để tụi nó chết chùm luôn với chúng tôi.
- Bạn suy nghĩ kỷ chưa ?
Giọng nói dưới đất lúc này nghe có vẻ hết kiên nhẩn:
- Không còn lựa chọn nào khác bạn ơi. Bạn đánh lẹ giùm, chúc bạn may mắn..."cổ lai chính chiến kỷ nhân hồi" mà bạn...
Đó là tiếng nói cuối cùng tôi nghe được từ đồn Dak-Seang "cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi". Anh Ngọc hốt hoảng gọi máy về xin chỉ thị của Quân-đoàn. Quân-đoàn trả lời phải xác nhận với đồn Dak-Seang một lần nữa rồi cho biết kết quả. Chúng tôi gọi muốn đứt hơi nhưng không còn liên lạc với Thạnh Trị nữa.
Báo cáo trở lại, Quân-đoàn quyết định: cho đánh thẳng vào đồn nhưng phải...cẩn thận.
- "Cẩn thận con C...ông" anh Ngọc lẩm bẩm chửi thề rồi gọi máy thông báo cho mấy ông Tây, bảo đánh thẳng vào đồn. Người phi-công Hải-quân Mỹ vừa kéo con tàu lên sau một loạt tấn công cũng bối rối không kém:
- Roger, Sir ! did you say...right on it ? Over.
- Yes Sir, it's all over. I said you salvo right on it. Over.
- Roger, Sir ! I understood, Sir, Over.
Chỉ có vậy thôi, đồn Dak-Seang biến thành một biển lửa sau hai đợt bomb salvo của mấy chiếc Phantom. Tôi đang chứng kiến một hình ảnh mà có lẽ suốt đời sẽ không bao giờ quên được. Tôi biết nói gì lúc này đây cho những người chiến-sĩ Địa-phương-Quân QLVNCH ? Tất cả những ngôn từ, những ý nghĩ đều trở thành vô nghĩa trước cảnh tượng bi-thảm hào-hùng này. Bay cách đó chừng 5 cây số với cao độ 5 ngàn bộ mà con tàu tôi như rung lên dưới tiếng nổ và sức ép khủng khiếp của mấy chục trái bomb 500 cân Anh nổ một lần. Làm sao còn có ai sống sót sau cơn tàn phá khủng khiếp này ?. Những thịt, những xương, những máu của các anh-hùng Dak-Seang đã tung bay khắp nơi rồi rơi xuống lẫn lộn với bụi, với đá, với sắt, để rồi nằm im trên mặt đất. Cũng trên mặt đất này của Quê-hương, ở một nơi nào đó, những người vợ, những đứa con, những bà con thân bằng quyến thuộc của các anh đâu biết người thân của mình đã anh-dũng đền nợ nước, vừa "cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi" như lời trăn trối cuối cùng của người đồn trưởng, vừa chết để cho cả dân-tộc được sống, được hít thở không khí tự-do dù chỉ trong một khoảnh khắc...
Ngày mai đây, những chiếc khăn tang trắng sẽ được chít vội vã lên đầu những người thiếu phụ nghèo nàn khổ sở kia, những khuôn mặt bầu bĩnh vô tội của trẻ thơ. Nước mắt nào khóc cho hết nỗi bi thương của người vợ lính VNCH đây hỡi ông trời xanh thẳm ? Hình ảnh nào có thể thay thế được hình ảnh ngọt ngào của Cha chúng nó, suốt khoảng đời còn lại của những em bé hồn nhiên vô tội kia hỡi ông trời ? Dân tộc tôi đã làm gì nên tội, "Tử biệt sinh ly" câu nói nghe được từ thuở học trò bây giờ mới thấy trọn nghĩa ý đau thương.
Máu nào chảy mà ruột không mềm, mắt tôi bổng chan hòa nước mắt. Tôi tống ga bay trở lại đồn. Qua màn lệ nhạt nhòa, tôi chẳng còn thấy gì, ngoài những cụm khói đen bốc lên giữa đồn. Những cụm mây oan khiên vừa rồi vẫn còn vần vũ như những chiếc khăn tang trắng lồng lộng bao phủ cả bầu trời. Mây ơi là mây, còn sống chẳng chịu giúp nhau, bây giờ người đã chết, đồn đã mất sao còn lảng vảng để khóc thương.
Trời chiều cao nguyên vốn đã thê lương cô quạnh lại càng trở nên tang tóc sầu thảm hơn. Hai chiếc Phantom Hoa-kỳ ráp thành một hợp đoàn tác chiến bay những vòng tròn thấp chung quanh đám đất đá điêu tàn không hiểu để quan sát hay để chào vĩnh biệt những chiến-sĩ gan dạ anh-hùng của Địa-phương-Quân QLVNCH. Dưới trời chiều nắng tắt, trông hợp đoàn Phantom như hai con chim Hải-Âu ủ rủ lượn từng vòng quanh xác chết của đồng loại. Sau khi nhận kết oanh kích của anh Ngọc, giọng nói xúc động của người phi tuần trưởng Phantom vang lên:
- Sir, may I reach out across the fires and destructions of to đay to tell you this: Those people down there have fougth like men and have gone in honor.
Giọng anh Ngọc run run nghẹn ngào:
- Yes sir, they have gone in honor. That was an Alamo by all means, sir. An ever greater Alamo than ours, Over.
Tôi thấy hai hàng nước mắt chảy dài trên má anh Ngọc.
- Roger ! we have thousand of Alamo like that every day in our country. 
- Roger, I believe that, sir, God bless you all. Over.
Hai chiếc Phantom liếc cánh chào vĩnh biệt rồi bốc lên cao, mất hút giữa bầu trời ảm đạm. Alamo, cái tên đã đi vào huyền sử của dân tộc Hoa-kỳ mà bất cứ công dân Mỹ nào nghe cũng phải hảnh diện. Alamo, làm tôi nhớ đến bài học Anh văn năm đệ ngũ. Alamo, đúng ra là một ngôi nhà thờ "Y-pha-Nho" mà 2000 chiến-sĩ kỵ-binh Hoa-kỳ đã tử thủ khi chống cự lại với hàng chục ngàn quân Mễ-Tây-Cơ cho đến phút cuối cùng. Không ai đầu hàng và tất cả đã bị tàn sát. Người Mỹ chỉ có một thành Alamo trong suốt 200 năm lập quốc mà cả thế giới đều biết, đều mến phục. Đất nước tôi có bao nhiêu thành Alamo còn tàn khốc hơn, đẩm máu gấp ngàn lần hơn suốt bao năm chinh chiến.
Sáng sớm hôm sau tôi và anh Ngọc bay thêm một phi-vụ sớm trước khi bàn giao biệt-đội. Tối đêm qua một trận mưa bomb của B52 đã cày nát khu tập trung quân giặc. Dù biết là vô ích, chúng tôi vẫn mở tần số củ để gọi Thạnh Trị. Nhưng chả còn Thạnh Trị nào để trả lời cho Bạch-Ưng nữa. Đồn Dak-Seang chỉ còn đống đất vụn điêu tàn. Gió thổi lên từng cơn cuốn theo những lớp bụi đỏ mù.
Tôi nhìn xuống đó, tưởng nhớ đến những cái chết oai hùng chiều qua. Trong một quê hương khói lửa, kiếp người quả thật mong manh như gió, như đám bụi mù kia. Mới nói nói cười cười mà bây giờ đã ngàn thu vĩnh biệt.
Bay thêm vài vòng quanh đồn để tưởng nhớ ngậm ngùi cho các anh rồi cũng đến lúc phải từ giả để ra đi. "Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi". Thôi thì xin thành kính nghiêm trang đưa tay chào vĩnh biệt các anh. Những người lính Địa-Phương-Quân âm thầm của một tiền đồn xó núi. Địa-Phương-Quân, cái tên nghe khiêm nhường và hiền lành như đất, như bộ đồ xanh bạc màu của các anh. Địa-Phương-Quân, thứ lính...âm thầm nhất trong các thứ lính của Quân-lực; không màu mè, không áo rằn ri, không có những huyền thoại khủng khiếp, không "truyền thống binh chủng" không có đến những khẩu hiệu nẩy lửa chết người. Nhưng Địa-Phương-Quân Pleiku chiều qua đã bình tỉnh xin "cho nó nổ trên đầu tôi". "Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi bạn ơi". Xin vĩnh biệt và cảm tạ. Cảm tạ các anh đã đem cái quí giá nhất của cuộc đời là mạng sống mình để đổi lấy cho Quê-hương dù đã rách nát tả tơi còn có được những ngày xanh hy vọng. Cho buổi họp chợ ban mai, dù nghèo nàn thưa thớt vẫn còn được an bình. Cho ngôi trường quận lỵ thấp lè tè những mái tôn cháy nắng còn rộn tiếng trẻ thơ cười. Cho mái chùa cong cong nơi sườn núi còn được ngân lên những hồi chuông tín mộ. Và cho những người ở lại như tôi đây biết rằng mình sống tức còn nợ phải trả...Các anh chính là những người được mô tả trong một bài học thuộc lòng tôi thuộc làu làu lúc còn là một đứa bé:

Họ là kẻ khi quê hương chuyển động
Dưới gót giày của những kẻ xâm lăng
Đã xông vào khói lửa quyết liều thân
Để bảo vệ tự do cho Tổ quốc
Trong chiến đấu không nài muôn khó nhọc
Cười hiểm nguy bất chấp nỗi gian nan
Người thất cơ đành thịt nát xương tan
Những kẻ sống lòng son không biến chuyển
Tuy tên họ không ghi trong sử sách
Tuy bảng vàng bia đá chẳng đề tên
Tuy mồ hoang xiêu lạc dưới trời quên
Không ai đến khấn nguyền dâng lễ vật
Nhưng máu họ đã len vào mạch đất
Thịt cùng xương trộn lẫn với non sông
Và linh hồn chung với tấm tình trung
Đã hòa hợp làm linh hồn giống Việt

Xin thành kính viết lại một phần bài thơ của Đằng-Phương để tặng các anh. Các anh chính là những "Anh-hùng vô danh". Tổ-quốc Việt-Nam, Dân-tộc Việt-Nam ngàn đời sẽ còn ghi ơn các anh. Xin vĩnh-biệt và cảm-tạ. 

Lê Xuân Nhị